Chúa nhật 6 Phục sinh năm C (Ga 14,23-29)

Thánh Thần sẽ làm cho anh em
nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

Bài đọc 1: Cv 15,1-2.22-29

Thánh Thần và chúng tôi quyết định: Không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết.

Bài trích sách Công vụ Tông Đồ.

1 Hồi ấy, có những người từ miền Giu-đê đến An-ti-ô-khi-a dạy các anh em rằng: “Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ.” 2 Ông Phao-lô và ông Ba-na-ba chống đối và tranh luận khá gay go với họ. Người ta bèn quyết định cử ông Phao-lô, ông Ba-na-ba và một vài người khác lên Giê-ru-sa-lem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh luận này.

22 Bấy giờ các Tông Đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết định chọn mấy người trong các ông, để phái đi An-ti-ô-khi-a với ông Phao-lô và ông Ba-na-ba. Đó là ông Giu-đa, biệt danh là Ba-sa-ba, và ông Xi-la, những người có uy tín trong Hội Thánh. 23 Các ông trao cho phái đoàn bức thư sau:

“Anh em Tông Đồ và kỳ mục chúng tôi gửi lời chào anh em gốc dân ngoại tại An-ti-ô-khi-a, tại miền Xy-ri và Ki-li-ki-a. 24 Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang. 25 Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi là ông Ba-na-ba và ông Phao-lô, 26 những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. 27 Vậy chúng tôi cử ông Giu-đa và ông Xi-la đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây: 28 Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: 29 là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh.”

 

Đáp ca: Tv 66,2-3.5.6 và 8 (Đ. c.4)

Đ.Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa,
chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài!

2Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc,
xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con,
3cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa,
và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài.

Đ.Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa,
chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài!

5Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ,
vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh,
Người cai trị muôn nước theo đường chính trực
và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này.

Đ.Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa,
chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài!

6Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa,
chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài.
8Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta!
Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!

Đ.Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa,
chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài!

 

Bài đọc 2: Kh 21,10-14.22-23

Thiên Thần chỉ cho tôi thấy Thành Thánh từ trời mà xuống.

Bài trích sách Khải huyền của thánh Gio-an tông đồ.

10 Tôi là Gio-an, đang khi tôi xuất thần, thì một thiên thần đem tôi lên một ngọn núi cao hùng vĩ, và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh, là Giê-ru-sa-lem, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, 11 chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Thành rực sáng tựa đá quý tuyệt vời, như ngọc thạch trong suốt tựa pha lê. 12 Thành có tường rộng và cao, với mười hai cửa do mười hai thiên thần canh giữ, và trên các cửa có ghi tên mười hai chi tộc con cái Ít-ra-en. 13 Phía đông có ba cửa, phía bắc ba cửa, phía nam ba cửa và phía tây ba cửa. 14 Tường thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên.

22 Trong thành, tôi không thấy có Đền Thờ, vì Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành. 23 Thành chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa toả rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi.

 

Tin mừng: Ga 14, 23-29

23 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.

24 Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.

25 Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em.

26 Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

27 “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.

28 Anh em đã nghe Thầy bảo: ‘Thầy ra đi và đến cùng anh em’. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy.

29 Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.”

 

Giáo lý cho bài giảng Chúa nhật 6 Phục sinh năm C

WHĐ (22/5/2025) – Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của Chúa nhật 6 Phục sinh năm C theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích.

Số 2746-2751: Lời cầu nguyện của Đức Kitô trong Bữa Tiệc Ly

Số 243, 388, 692, 729, 1433, 1848: Chúa Thánh Thần là Đấng Bào Chữa / Đấng An Ủi

Số 1965-1974: Luật Mới hoàn thành Luật Cũ

Số 865, 869, 1045, 1090, 1198, 2016: Giêrusalem thiên quốc

Bài Ðọc I: Cv 15, 1-2. 22-29

Bài Ðọc II: Kh 21, 10-14. 22-23

Phúc Âm: Ga 14, 23-29

 

Số 2746-2751: Lời cầu nguyện của Đức Kitô trong Bữa Tiệc Ly

Số 2746. Khi đến Giờ của Người, Chúa Giêsu cầu nguyện cùng Chúa Cha[1]. Lời cầu nguyện của Người, lời dài nhất được sách Tin Mừng lưu truyền, bao gồm toàn bộ Nhiệm cục tạo dựng và cứu độ, cũng như cả cái Chết và sự Phục sinh của Người. Lời cầu nguyện trong Giờ của Chúa Giêsu vẫn luôn còn là lời cầu nguyện của Người, cũng như cuộc Vượt Qua của Người, đã diễn ra “một lần cho mãi mãi”, vẫn luôn hiện diện trong phụng vụ của Hội Thánh Người.

Số 2747. Truyền thống Kitô giáo gọi lời nguyện này một cách xác đáng là “lời nguyện tư tế” của Chúa Giêsu. Đây chính là lời cầu nguyện của Vị Thượng Tế của chúng ta, lời cầu nguyện này không thể tách rời khỏi cuộc hiến tế của Người, khỏi cuộc Vượt Qua của Người để về cùng Chúa Cha, trong đó chính Người “được thánh hiến”[2] trọn vẹn cho Chúa Cha.

Số 2748. Trong lời cầu nguyện của cuộc Vượt Qua, của cuộc hiến tế này, mọi sự “được quy tụ”[3] trong Người: Thiên Chúa và thế gian, Ngôi Lời và xác phàm, sự sống vĩnh cửu và thời gian, tình yêu tự trao nộp và tội phản bội lại tình yêu, các môn đệ đang có mặt và những người sẽ tin vào Người nhờ lời của các ông, sự hạ mình và vinh quang. Đó là lời cầu nguyện của sự Hợp nhất.

Số 2749. Chúa Giêsu đã hoàn thành toàn bộ công trình của Chúa Cha và lời cầu nguyện cũng như hy lễ của Người trải rộng tới lúc hoàn tất thời gian. Lời cầu nguyện trong Giờ của Người hoàn thành những thời buổi cuối cùng và dẫn đưa chúng đến chỗ hoàn tất. Chúa Giêsu, Người Con đã được Chúa Cha trao cho mọi sự, đã trao hiến trọn vẹn cho Chúa Cha và đồng thời Người tỏ ra mình hoàn toàn tự do[4], nhờ quyền năng Chúa Cha ban cho Người trên mọi xác phàm. Người Con, Đấng đã trở thành Người Tôi Tớ, là Chúa, là Đấng Toàn Năng (Pantocrator). Vị Thượng Tế cao cả của chúng ta, Đấng cầu nguyện cho chúng ta, cũng là Đấng cầu nguyện trong chúng ta, và là Thiên Chúa, Đấng nhận lời chúng ta cầu nguyện.

Số 2750. Khi đã thuộc về Danh thánh của Chúa Giêsu, chúng ta có thể đón nhận, từ bên trong, lời cầu nguyện chính Người dạy chúng ta: “Lạy Cha chúng con”. Lời cầu nguyện tư tế của Người, từ bên trong, gợi hứng cho những lời cầu xin quan trọng của kinh Lạy Cha: quan tâm đến Danh Cha[5], nhiệt tình với Nước Cha (vinh quang[6]), chu toàn Ý Cha, kế hoạch cứu độ của Ngài[7] và sự giải thoát khỏi sự dữ[8].

Số 2751. Cuối cùng, trong lời cầu nguyện này, Chúa Giêsu mạc khải và dạy chúng ta sự “hiểu biết” bất khả phân ly về Chúa Cha và Chúa Con[9]. Sự hiểu biết ấy chính là mầu nhiệm của đời sống cầu nguyện.

 

Số 243, 388, 692, 729, 1433, 1848: Chúa Thánh Thần là Đấng Bào Chữa / Đấng An Ủi

Số 243. Trước cuộc Vượt Qua của Người, Chúa Giêsu báo tin sẽ sai đến một “Đấng Bào Chữa (Đấng Bảo Vệ) khác”, là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần, Đấng đã hoạt động trong công trình tạo dựng[10] và sau khi “đã dùng các Tiên tri mà phán dạy”[11], nay Ngài sẽ đến với và ở trong các môn đệ[12], để dạy bảo họ[13], và dẫn họ tới “sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13). Như vậy Chúa Thánh Thần được mạc khải như một Ngôi Vị thần linh khác, trong tương quan với Chúa Giêsu và với Chúa Cha.

Số 388. Thực tại của tội lỗi cũng được làm sáng tỏ cùng với sự tiến triển của mạc khải. Mặc dầu dân Thiên Chúa thời Cựu Ước đã biết đến thân phận đau thương của con người dưới ánh sáng của việc sa ngã được thuật lại trong sách Sáng Thế, họ vẫn không thể nắm bắt được ý nghĩa tối hậu của việc sa ngã đó, ý nghĩa tối hậu này chỉ được biểu lộ dưới ánh sáng của cái Chết và sự Sống lại của Chúa Giêsu Kitô[14]. Cần phải nhận biết Đức Kitô là nguồn mạch của ân sủng, thì mới nhận ra ông Ađam là nguồn gốc của tội lỗi. Thần Khí bào chữa, do Đức Kitô phục sinh sai đến, đã đến tố cáo “thế gian sai lầm về tội lỗi” (Ga l6,8), khi Ngài mạc khải Đức Kitô là Đấng cứu chuộc trần gian.

Số 692. Khi Chúa Giêsu loan báo và hứa rằng Chúa Thánh Thần sẽ ngự đến, Người gọi Chúa Thánh Thần là “Đấng Bào Chữa” (Paracletus), hoặc sát chữ là “Đấng được gọi đến bên mình”, ad-vocatus (Ga 14,16.26; 15,26; 16,7). Paracletus cũng thường được dịch là “Đấng An ủi”, và Chúa Giêsu là Đấng An ủi thứ nhất[15]. Chính Chúa gọi Chúa Thánh Thần là “Thần chân lý”[16].

Số 729. Chỉ khi đến Giờ Chúa Giêsu phải được tôn vinh, Người mới hứa rằng Chúa Thánh Thần sẽ ngự đến, vì cái Chết và sự Sống lại của Người sẽ là sự hoàn thành Lời đã hứa với các Tổ phụ[17]: Thần chân lý, Đấng Bào Chữa khác, sẽ được Chúa Cha ban nhờ lời cầu xin của Chúa Giêsu; chính Ngài sẽ được Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Giêsu; Chúa Giêsu sẽ sai Chúa Thánh Thần từ Chúa Cha mà đến, bởi vì Ngài xuất phát từ Chúa Cha. Chúa Thánh Thần sẽ đến, và chúng ta sẽ nhận biết Ngài, Ngài sẽ ở cùng chúng ta mãi mãi, Ngài sẽ cư ngụ với chúng ta; Ngài sẽ dạy dỗ chúng ta mọi sự và nhắc cho chúng ta nhớ tất cả những gì Chúa Giêsu đã nói, và Ngài sẽ làm chứng cho Đức Kitô; Ngài sẽ dẫn chúng ta đến chân lý trọn vẹn và sẽ tôn vinh Đức Kitô. Còn đối với thế gian, Ngài sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính, và về việc xét xử.

Số 1433. Khởi từ cuộc Vượt Qua, Chúa Thánh Thần tố cáo thế gian về tội lỗi, vì thế gian đã không tin vào Đấng[18] Chúa Cha đã sai đến. Nhưng cũng chính Chúa Thánh Thần, Đấng tố cáo tội lỗi, lại là Đấng An Ủi[19], Đấng ban cho tâm hồn con người ân sủng để họ thống hối và hối cải[20].

Số 1848. Cũng như Thánh Phaolô quả quyết: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20). Nhưng để thực hiện công trình của mình, ân sủng phải vạch trần tội lỗi nhằm hối cải trái tim chúng ta và làm cho chúng ta “nên công chính để được sống đời đời, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 5,21). Cũng như thầy thuốc xem xét vết thương trước khi chữa lành nó, Thiên Chúa, nhờ Ngôi Lời của Ngài và Thần Khí của Ngài, chiếu ánh sáng sống động vào tội lỗi:

“Sự hối cải đòi buộc phải xác tín về tội lỗi; nó bao hàm một phán đoán từ bên trong của lương tâm, và điều này là bằng chứng về sự hành động của Thần chân lý trong hữu thể thẳm sâu của con người, và đồng thời cũng là khởi điểm của việc ban tặng mới của ân sủng và tình yêu: “Hãy lãnh nhận Chúa Thánh Thần”. Như vậy, trong việc xác tín về tội lỗi, chúng ta nhận ra một hồng ân kép: hồng ân về chân lý của lương tâm và hồng ân về sự chắc chắn của ơn cứu chuộc. Thần chân lý là Đấng an ủi”[21].

 

Số 1965-1974: Luật Mới hoàn thành Luật Cũ

Số 1965. Luật mới hay Luật Tin Mừng là sự trọn hảo nơi trần thế của Luật thần linh, tự nhiên và được mạc khải. Đây là công trình của Đức Kitô, được trình bày cách đặc biệt trong Bài giảng trên núi. Đây cũng là công trình của Chúa Thánh Thần, và nhờ Ngài, nó trở thành luật nội tâm của đức mến: “Ta hoàn thành một Giao Ước Mới với nhà Israel và nhà Giuđa…. Ta sẽ ghi vào lòng trí chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của Ta; Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng còn chúng sẽ là Dân của Ta” (Dt 8,8.10)[22].

Số 1966. Luật mới là ân sủng của Chúa Thánh Thần được ban cho các tín hữu nhờ tin vào Đức Kitô. Luật này hoạt động nhờ đức mến, và dùng Bài giảng trên núi của Chúa để dạy chúng ta điều phải làm, và dùng các bí tích để truyền thông ân sủng giúp chúng ta thực hiện điều đó:

“Nếu ai sốt sắng và bình tâm suy niệm bài giảng được Chúa chúng ta là Chúa Giêsu Kitô công bố trên núi, như chúng ta đọc trong sách Tin Mừng theo thánh Matthêu, tôi nghĩ rằng người đó sẽ gặp được ở đó, vì là những lời răn dạy tốt nhất, một quy luật trọn hảo của đời sống Kitô hữu. Bài giảng này chứa đựng tất cả những mệnh lệnh mà nhờ đó đời sống Kitô hữu được nặn đúc nên”[23].

Số 1967. Luật Tin Mừng hoàn thành[24], tinh luyện, vượt qua và kiện toàn Luật cũ. Trong các mối phúc, Luật mới hoàn thành các lời hứa thần linh khi nâng cao chúng lên và quy hướng chúng về “Nước Trời”. Luật Tin Mừng dành cho những ai sẵn sàng đón nhận niềm hy vọng mới này với lòng tin: những người nghèo, người khiêm tốn, người đau khổ, người có trái tim trong sạch, người bị bách hại vì Đức Kitô, như vậy Luật Tin Mừng phác hoạ những con đường chưa từng thấy của Nước Trời.

Số 1968. Luật Tin Mừng hoàn thành các mệnh lệnh của Lề Luật. Bài giảng của Chúa không hủy bỏ hay làm giảm giá trị các quy định luân lý của Luật cũ, nhưng rút ra những sức mạnh còn ẩn kín của chúng, và làm cho từ nơi chúng phát sinh ra những đòi hỏi mới: Luật Tin Mừng mạc khải toàn bộ chân lý thần linh và nhân linh của Luật cũ. Luật mới không thêm những mệnh lệnh mới từ bên ngoài, nhưng đi đến chỗ biến đổi gốc rễ của các hành vi, là trái tim, nơi con người chọn lựa giữa thanh sạch và ô uế[25], nơi hình thành đức tin, đức cậy, đức mến, và cùng với chúng, các nhân đức khác. Như vậy, Tin Mừng đưa Lề Luật tới sự viên mãn của nó nhờ bắt chước sự trọn hảo của Cha trên trời[26], nhờ việc tha thứ cho kẻ thù và cầu nguyện cho những người bách hại, giống như lòng quảng đại của Thiên Chúa[27].

Số 1969. Luật mới thực thi các hành vi tôn giáo: bố thí, cầu nguyện và chay tịnh, khi quy hướng các việc đó về “Chúa Cha, Đấng thấu suốt những gì kín đáo”, khác với những người muốn “được người ta thấy”.[28] Lời cầu nguyện của Luật mới là kinh “Lạy Cha”[29].

Số 1970. Luật Tin Mừng bao hàm sự chọn lựa dứt khoát giữa “hai con đường”[30], và thực hiện các lời dạy của Chúa[31]; Luật Tin Mừng được tóm lược trong khuôn vàng thước ngọc: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môisen và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12)[32].

Toàn bộ Luật Tin Mừng được chứa đựng trong điều răn mới của Chúa Giêsu[33], là chúng ta hãy yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta[34].

Số 1971. Phải thêm vào bài giảng của Chúa giáo lý luân lý trong giáo huấn của các Tông Đồ, như các đoạn Rm 12-15; 1 Cr 12-13; Cl 3-4; Ep 4-5; v.v…. Giáo huấn này lưu truyền đạo lý của Chúa với quyền bính của các Tông Đồ, đặc biệt trong việc trình bày các nhân đức xuất phát từ đức tin vào Đức Kitô và là các nhân đức được đức mến, hồng ân chủ yếu của Chúa Thánh Thần, làm cho sinh động. “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ…. thương mến nhau với tình huynh đệ… Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truan, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà” (Rm 12,9-13). Giáo lý này cũng dạy chúng ta giải quyết những vấn đề lương tâm dưới anh sáng của mối tương quan giữa chúng ta với Đức Kitô và với Hội Thánh[35].

Số 1972. Luật mới được gọi là luật của tình yêu, bởi vì dạy chúng ta hành động vì tình yêu mà Chúa Thánh Thần tuôn đổ, hơn là vì sợ hãi; Luật mới được gọi là luật của ân sủng, bởi vì mang lại sức mạnh của ân sủng để hành động nhờ đức tin và các bí tích; Luật mới được gọi là luật của sự tự do[36], bởi vì giải thoát chúng ta khỏi những ràng buộc về nghi thức và pháp lý của luật cũ, khiến chúng ta sẵn sàng tự nguyện hành động theo sự thúc đẩy của đức mến, và sau hết làm cho chúng ta chuyển từ thân phận của một tôi tớ “không biết việc chủ làm”, sang tình trạng là bạn hữu của Đức Kitô “vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15), hoặc còn tới địa vị là một người con thừa tự nữa[37].

Số 1973. Luật mới, ngoài các điều răn của mình, cũng bao gồm những lời khuyên Phúc Âm. Sự phân biệt của truyền thống giữa các điều răn của Thiên Chúa với các lời khuyên Phúc Âm được thiết lập liên quan đến đức mến, là sự trọn hảo của đời sống Kitô hữu. Các điều răn nhằm giúp tránh những gì không phù hợp với đức mến. Các lời khuyên có mục tiêu giúp tránh những gì, mặc dầu không đối nghịch, nhưng có thể ngăn cản sự phát triển của đức mến[38].

Số 1974. Các lời khuyên Phúc Âm biểu lộ sự sung mãn sống động của một đức mến không bao giờ hài lòng, vì đã không cho đi nhiều hơn nữa. Các lời khuyên chứng tỏ sự thúc đẩy của đức mến và khích động sự sẵn sàng thiêng liêng của chúng ta. Luật mới chủ yếu cốt tại các điều răn là mến Chúa yêu người. Các lời khuyên chỉ ra những con đường trực tiếp hơn, những phương tiện dễ dàng hơn và phải được thực thi tùy theo ơn gọi của mỗi người:

“Thiên Chúa không muốn mỗi người đều phải giữ tất cả các lời khuyên, nhưng chỉ những lời khuyên nào thích hợp với sự khác biệt của các nhân vị, các thời đại, các hoàn cảnh và các sức lực, như đức mến đòi hỏi; thật vậy, chính đức mến, như là nữ hoàng của mọi nhân đức, mọi giới răn, mọi lời khuyên, và cuối cùng, mọi lề luật và mọi hành động Kitô giáo, nên đức mến ban cho tất cả những điều đo chỗ đứng, trật tự, thời gian và giá trị của chúng”[39].

 

Số 865, 869, 1045, 1090, 1198, 2016: Giêrusalem thiên quốc

Số 865. Hội Thánh là Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền trong căn tính sâu xa và tối hậu của mình, bởi vì nơi Hội Thánh, “Nước Trời”, “Nước Thiên Chua”[40] đã hiện hữu và sẽ được hoàn thành trong ngày tận thế, Nước đó đã đến nơi Ngôi Vị của Đức Kitô và trong trái tim của những ai được tháp nhập vào Người, đang lớn lên cách âm thầm cho đến khi nước đó tỏ hiện trọn vẹn lúc cánh chung. Lúc đó, tất cả mọi người đã được Người cứu chuộc, đã được Người “thánh hóa và làm cho nên tinh tuyền trước tôn nhan Thiên Chúa trong tình yêu”[41], sẽ được quy tụ thành dân duy nhất của Thiên Chúa, “Hiền Thê của Con Chiên”[42], “Thành Thánh tự trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi sự huy hoàng của Thiên Chúa”[43]; và “tường thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên” (Kh 21,14).

Số 869. Hội Thánh tông truyền: Hội Thánh được xây dựng trên những nền móng vững chắc là mười hai Tông Đồ của Con Chiên[44]; Hội Thánh không thể bị hủy diệt[45]; Hội Thánh được gìn giữ một cách không thể sai lầm trong chân lý; Đức Kitô điều khiển Hội Thánh qua thánh Phêrô và các Tông Đồ khác, các ngài đang hiện diện nơi những người kế nhiệm các ngài, là Đức Giáo Hoàng và Giám mục đoàn.

Số 1045. Đối với con người, sự hoàn tất này sẽ là sự thực hiện vĩnh viễn việc hợp nhất nhân loại mà Thiên Chúa đã muốn từ tạo thiên lập địa, và Hội Thánh lữ hành đã “như là bí tích” của sự hợp nhất ấy[46]. Những ai được kết hợp với Đức Kitô sẽ làm thành cộng đoàn những người được cứu chuộc, “Thành thánh” của Thiên Chúa (Kh 21,2), “Hiền thê của Con Chiên” (Kh 21,9). Cộng đoàn này sẽ không còn bị tổn thương bởi tội lỗi, bởi các điều ô uế[47], bởi tính ích kỷ từng hủy diệt hoặc làm tổn thương cộng đồng nhân loại nơi trần thế. Sự hưởng kiến vinh phúc (visio beatifica) trong đó Thiên Chúa tỏ mình ra cách vô tận cho những người được chọn, sẽ là nguồn mạch vĩnh cửu của vinh phúc, của bình an và của sự hiệp thông với nhau.

Số 1090. “Trong phụng vụ trần thế, chúng ta tham dự như một cách nếm trước phụng vụ trên trời, được cử hành trong thành thánh Giêrusalem, nơi chúng ta là lữ khách đang tiến về, ở đó, Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa, là thừa tác viên của cung thánh, và của nhà tạm đích thực; chúng ta hợp cùng toàn thể đạo binh trên trời đồng thanh ca ngợi tôn vinh Chúa; chúng ta kính nhớ các Thánh, và hy vọng được đồng phận với các ngài; chúng ta mong đợi Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho đến khi Người, là sự sống của chúng ta, xuất hiện, và chúng ta sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang”[48].

Số 1198. Trong tình trạng tại thế, Hội Thánh cần có những nơi để cộng đoàn tập họp: các thánh đường hữu hình của chúng ta là những nơi thánh, là hình ảnh của Thành thánh Giêrusalem thiên quốc, nơi chúng ta là những lữ khách đang tiến về.

Số 2016. Các con cái của Mẹ thánh chúng ta là Hội Thánh, hy vọng một cách chính đáng được Thiên Chúa là Cha ban ơn bền đỗ đến cùng và sự trả công vì những công việc tốt lành đã được thực hiện nhờ ân sủng của Ngài trong sự hiệp thông với Chúa Giêsu[49]. Các tín hữu, tuân giữ cùng một quy luật sống, được tham dự vào “niềm hy vọng hồng phúc” của những người mà lòng thương xót của Thiên Chúa đã quy tụ trong “Thành thánh là Giêrusalem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang” (Kh 21,2).

 

Bài giảng Đức Thánh Cha – Thứ Hai Bát nhật Phục sinh

Đây là những bài giảng và huấn dụ của Đức Thánh Cha trong các thánh lễ và các buổi đọc kinh Truyền tin với các tín hữu vào Chúa nhật 6 Phục sinh năm C.

Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 6 Phục sinh năm C (22/5/2022) – Chúa Giêsu ban cho chúng ta bình an của Người

Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 6 Phục sinh năm C (26/5/2019) – Thánh Thần ở bên và hướng dẫn Giáo hội

Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 6 Phục sinh năm C (01/5/2016) – Chúa Thánh Thần là Người Thầy nội tâm

Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 6 Phục sinh năm C (05/5/2013) – Tin mừng, Giáo hội và Thừa sai

Đức Bênêđictô XVI, Bài giảng Chúa nhật 6 Phục sinh năm C (13/5/2007) – Thánh Thần và chúng tôi quyết định

 

1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

Suy niệm: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”. Ðức Giêsu muốn nhấn mạnh mối liên kết giữa lòng yêu mến và sự trung thành với giáo huấn của Ngài. Không thể nói yêu Ngài nếu không nghe lời Ngài. Không thể thi hành lời Ngài trọn vẹn nếu không vì yêu Ngài. Tình yêu được biểu hiện cụ thể qua hành động tuân giữ trong sự tự nguyện.

Ðiều khát mong của Ðức Giêsu được bày tỏ qua lời trăn trối: “hãy yêu thương nhau”. Yêu Chúa thật là yêu thật mọi người.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin ban Thánh Thần đến dạy dỗ chúng con, để chúng con biết yêu Chúa một cách chân tình, biết trung thành thực thi giáo huấn của Chúa vì tình yêu mến chứ không phải do sợ hãi bó buộc. Chỉ có một điều làm chúng con lo lắng băn khoăn là chúng con sợ làm buồn lòng Chúa mà thôi. Amen.

 

2. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

ĐỨC GIÊSU VẪN HIỆN DIỆN

A. DẪN NHẬP

Bài Tin mừng hôm nay là một đoạn trích trong bài diễn từ giã biệt của Đức Giêsu (Ga 13, 31; 14, 31). Việc Đức Giêsu ra đi đã làm cho các môn đệ buồn sầu lo lắng, không biết tương lai sẽ ra sao. Thấy vậy, Đức Giêsu đã trấn an các ông, Người khuyên các ông “đừng xao xuyến và buồn sầu” (Ga 14, 27), vì Người ra đi rồi sẽ trở lại với các ông bằng một cách thế khác

Đức Giêsu khuyên các ông hãy giữ mối tình thắm thiết với Người, đừng “cách mặt xa lòng”, và cách thế để tỏ lòng yêu mến đối với Người là hãy thực hiện những điều Người truyền dạy: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy tuân giữ các giới răn của Thầy” (Ga 14, 5). Và tuân giữ lời Người là thước đo cụ thể và chính xác nhất lòng yêu mến của các ông đối với Người.

Đức Giêsu còn cho các ông biết việc Người ra đi thì có lợi cho các ông hơn, vì Người có ra đi thì Thánh Thần mới được sai đến để dạy dỗ và nhắc nhở các ông, giúp các ông hiểu thấu đáo hơn những lời nói và việc làm của Người khi còn tại thế: “Thầy ra đi thì có lợi cho các con. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với các con; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với các con” (Ga 16, 7).

Sau cùng, Đức Giêsu còn hứa ban cho các môn đệ sự bình an riêng của Người. Đây là sự bình an đặc biệt, bình an nội tâm, một sự bình an tuyệt hảo mà chỉ Thiên Chúa mới có thể ban tặng cho chúng ta: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban cho các con bình an của Thầy, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng” (Ga 14, 27).

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: Cv 15, 1-2.22-29

Ngay từ ban đầu, Hội thánh cũng gặp một ít trục trặc, nhưng đã được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Số là đang khi Phaolô và Barnabê truyền giáo cho dân ngoại thì có những người Do thái từ Giêrusalem đến buộc dân ngoại tân tòng phải cắt bì và phải tuân giữ luật của Maisen. Hai vị truyền giáo không đồng ý nên trình vấn đề này lên Hội thánh.

Các Tông đồ đã họp hội nghị tại Giêrusalem và ra quyết nghị: những người ngoại tân tòng chỉ phải giữ những cái tối thiểu. Hội nghị đã cử Phaolô, Barnabê và mấy vị khác đến Antiochia với sứ mạng báo tin cho họ: chỉ cần giữ những điều cần thiết, đó là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm.

+ Bài đọc 2: Kh 21, 10-23

Trong một thị kiến khác, thánh Gioan được trông thấy “kinh thành muôn thuở” lý tưởng trong tương lai. Đó là hình ảnh uy nghi của Giêrusalem mới được trình bày cho chúng ta:

Thành từ trên trời ngự xuống.

Rất xinh đẹp và tươi sáng.

Thành không có đền thờ vì chính Thiên Chúa là đền thờ của thành; thành cũng không có mặt trời mặt trăng, vì chính Thiên Chúa là ánh sáng của thành.

Đó là Hội thánh tương lai trên trời khi vương quốc của Thiên Chúa sẽ đến trong vinh quang trọn vẹn.

+ Bài Tin mừng: Ga 14, 23-29

Bài Tin mừng lấy từ bài diễn từ của Đức Giêsu trong bữa Tiệc Ly, và ý chính là sự ra đi sắp xảy ra của Người. Người bảo đảm cho các môn đệ rằng Người sẽ không để cho họ mồ côi. Dù Người ra đi, Người và họ sẽ không rời nhau. Nếu họ giữ lời Người, họ sẽ được đưa vào trong tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con. Chính Thánh Thần sẽ nhắc họ lời Người.

Trong dịp này, Người trấn an các môn đệ trong cuộc ra đi của Người. Vì thế, Người hứa ban cho các ông sự bình an, một thứ bình an đặc biệt mà thế gian không thể ban cho các ông.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Những lời hứa của Đức Giêsu

I. SỰ HIỆN DIỆN MỚI CỦA ĐỨC GIÊSU

Sự ra đi của Đức Giêsu

Trong suốt thời gian rao giảng Tin mừng của Đức Giêsu, các môn đệ đã được Người rao giảng về Nước trời, được nghe những lời Người giảng, chứng kiến những việc Người làm, nhưng các ông chưa hiểu được ý Chúa. Các ông cứ tưởng Chúa mời gọi mình để được hưởng đặc quyền đặc lợi, được ăn trên ngồi trốc, được quyền lãnh đạo và được mọi người tôn trọng trong Nước Người sắp thành lập.

Nhưng không, trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu nói về sự ra đi của Người: Người sẽ bị bắt, bị đánh đòn, bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại. Thật là một tin sét đánh làm cho các ông chao đảo. Các ông chìm vào sự đau buồn trước viễn cảnh mất Người. Họ không muốn Người đi, họ muốn giữ Người lại vì “Ra đi là chết trong lòng một ít”.

Các ông cảm thấy lo sợ vì như sống trong cảnh rắn mất đầu, các ông sẽ phải cô đơn, phải gặp nhiều trắc trở và gian nan thử thách. Tương lai còn mù mịt, không biết số phận mình sẽ rao sao. Đức Giêsu hiểu rõ tâm trạng của các ông.

Những lời khích lệ của Đức Giêsu

Đức Giêsu nói với họ rằng Người không để cho họ mồ côi đâu. Người ra đi rồi sẽ trở lại với họ, để bắt đầu giữa họ và trong họ một cách hiện diện khác, mầu nhiệm, chỉ dành cho những ai trung tín với lời Người. Người không có ý đề cập đến sự trở lại với hình dạng thể lý, cũng không phải sự trở lại huy hoàng trong ngày thế mạt, nhưng, ngay từ bây giờ, là sự hiệp thông nghĩa thiết với Thiên Chúa trong mầu nhiệm Ba Ngôi: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23).

Đức Giêsu còn cho biết việc ra đi của Người sẽ có lợi cho các ông hơn, vì như Người nói: “Các con sẽ buồn vì nghe nói Thầy phải rời xa các con. Lòng các con sẽ buồn sầu và sợ hãi, nhưng này Thầy bảo cho chúng con biết Thầy ra đi sẽ tốt cho các con hơn, vì khi ấy, Cha Thầy sẽ sai Thánh Thần đến giúp các con tăng trưởng theo một cách thức mới”.

Hay nói cách khác, Đức Giêsu nói cho các môn đệ biết đã đến giờ Người phải rời xa các ông ít lâu, đã đến giờ họ phải bắt đầu một giai đoạn mới trong việc phát triển tâm linh, đã đến giờ họ cần được phát triển theo một phương cách mới.

Đức Giêsu nhấn mạnh cho các ông tư tưởng này là hãy bình tĩnh: “Các con đừng xao xuyến và sợ hãi” (Ga 14, 27). Người không bỏ rơi các ông nhưng luôn hiện diện với các ông bằng một cách thức khác mà các ông không ngờ.

Truyện: Thầy đã vác con trên vai

Chúa Giêsu và một thanh niên cùng đồng hành trên một bãi cát dài trên biển. Bốn vết bàn chân hằn lên rõ trên mặt cát. Nhưng khi chàng thanh niên chẳng may gặp phải khó khăn thử thách, anh ta liền nhìn xuống mặt cát thì chỉ thấy còn lại hai dấu bàn chân. Anh kinh ngạc thất vọng kêu lên:

– Thưa Thầy, lúc nãy Thầy trốn đi đâu để con bước đi một mình?

Chúa Giêsu nhỏ nhẹ bảo anh ta:

– Con thử nhìn kỹ xem, coi đó là những vết chân của ai?

Nghe lời Chúa, anh thanh niên nhìn kỹ lại thì mới tỉnh ngộ ra, đó là những dấu chân của Chúa. Anh ta vội thắc mắc la lên:

– Vậy thưa Thầy, lúc đó con ở đâu?

Chúa âu yếm trả lời:

– Con ạ, những lúc con gặp khó khăn gian nan, chính khi đó Thầy biết con không đủ sức chịu đựng, nên Thầy đã vác con trên vai Thầy để cứu giúp con khỏi hoạn nạn đấy.

Dĩ nhiên đây là câu chuyện tưởng tượng, nhưng lại là một câu chuyện đầy ý nghĩa, vì nó nói lên được một sự thật mà có lẽ ngày xưa các Tông đồ cũng như ngày nay chúng ta đều không nhận ra hoặc chưa tìm hiểu cặn kẽ: đó là Chúa luôn luôn hiện diện bên ta để bênh vực giúp đỡ ta.

Một chân lý thật đơn giản và rõ ràng. Vì suốt trong thời gian truyền đạo, riêng tư cũng như công khai, Chúa Giêsu luôn nhắc đi nhắc lại câu nói: “Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Thế thì tại sao trong cuộc sống hằng ngày, nhất là những lúc gặp gian nan khốn khó chúng ta hầu như quên sự hiện diện của Chúa, thậm chí đôi lúc có những người đối xử, ăn nói kiểu như không có Chúa nữa.

Những lời căn dặn của Đức Giêsu

Người ta thường nói: “Cách mặt xa lòng” (Tục ngữ) nghĩa là xa nhau thì dễ quên nhau. Đây là một kinh nghiệm rất phổ biến, vì nó thường xảy ra hằng ngày một cách rất tự nhiên. Đức Giêsu muốn đề phòng cho các môn đệ khỏi lâm vào cảnh đau lòng “cách mặt xa lòng”, nên trước khi về trời, về cùng Chúa Cha, Người đã đảm bảo với môn đệ rằng về phía Thiên Chúa không có chuyện xa mặt cách lòng, và về phía con người cần phải giữ lời Thầy để “cách mặt, nhưng gần lòng”.

Về phía Thiên Chúa

Đức Giêsu đảm bảo với các môn đệ rằng về phía Thiên Chúa không có cách mặt xa lòng đâu. Chúng ta có thể trưng ra những câu Đức Giêsu nói với các ông trong bữa Tiệc Ly:

“Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở với các con (Ga 14, 23).

– “Cha Thầy phái đến nhân danh Thầy, Đấng bào chữa là Thánh Thần sẽ dạy các con mọi điều và sẽ làm cho các con nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với các con” (Ga 14, 26).

– Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế, chứ không để các con mồ côi đâu.

Như vậy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều đến ở trong các con, các con được yêu mến, dạy dỗ, được bào chữa nâng đỡ và được ban phúc bình an, không còn phải xao xuyến, sợ hãi, mà còn được vui mừng về cùng Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Vậy, về phía Đức Giêsu, Người càng xa mặt về phần xác bao nhiêu, thì về phía thiêng liêng càng gắn bó kết hợp với các con ở khắp mọi nơi mọi lúc.

Về phía loài người

Để đề phòng khi xa mặt Chúa, mà lòng mình không xa Chúa, thì Đức Giêsu đã bảo: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy” (Ga 14, 23). Giữ lời Thầy là một trắc nghiệm rõ nhất, chính xác nhất về lòng mến Chúa.

Đức Giêsu đã nói: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời ThầyAi không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy”. Câu nói này đủ xác định thế nào là yêu mến Chúa, nghĩa là dấu hiệu, bằng chứng để chúng ta biết được hay người khác biết được chúng ta yêu mến Chúa là chúng ta tuân giữ lời Chúa. Vì đây cũng là thước đo lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa nhiều hay ít, đó là chúng ta giữ lời Chúa nhiều hay ít.

Chúa bảo chúng ta hãy tuân giữ lời Chúa, nhưng lời Chúa ở đâu? Nếu trả lời một cách ngắn gọn, chúng ta có thể nói: lời Chúa chứa đựng trong Sách thánh, tức là trong Kinh thánh. Nhưng nếu hiểu rộng ra, chúng ta có thể nói: lời Chúa còn chứa đựng trong Thánh truyền, tức là một phần mạc khải được lưu lại dưới hình thức truyền khẩu và trong giáo huấn của các giáo phụ. Lời Chúa còn chứa đựng trong Phụng vụ, tức là những gì Giáo hội sống và thể hiện trong sinh hoạt phụng tự. Và lời Chúa còn chứa đựng trong đời sống của Giáo hội, tức là giáo huấn của các công đồng, các Đức Giáo hoàng, các Giám mục…

Tóm lại, Kinh thánh, Thánh truyền, phụng vụ và giáo huấn của Giáo hội, đó là những kho tàng chứa đựng lời Chúa. Nhưng thông thường và cụ thể, mỗi khi nói đến lời Chúa, chúng ta thường hiểu là Thánh kinh, nhất là sách Tin mừng.

Ngoài ra, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ và chúng ta khi xa mặt Chúa, phải có đức tin vững vàng trong cơn gian nan thử thách. Thiên Chúa xếp đặt cho chúng ta phải trải qua một thời kỳ gian khổ, để ta trưởng thành về tâm linh. Nhưng trong suốt thời gian chịu đựng thử thách đó, Thiên Chúa không bỏ rơi ta. Người luôn ở trong ta để động viên và giúp đỡ ta vượt qua gian khổ, để đức tin của ta ngày càng mạnh mẽ và trưởng thành.

Truyện: Con kén và con bướm

Ngày nọ, một chuyên gia sưu tầm các loài bướm vào một công viên, thấy một cái kén lạ treo lơ lửng trên cành cây, ông ta liền bứt lấy cành cây ấy và đem kén bướm về nhà nghiên cứu. Ít ngày sau, ông thấy có cái gì động đậy bên trong kén. Ông biết là sắp tới lúc con bướm nở. Hôm sau, cái kén lại nhúc nhích, nhưng cũng chẳng có gì khác xảy ra. Ngày thứ ba vẫn thấy kén nhúc nhích mà con bướm bên trong cũng không ra được. Nghĩ rằng tại cái kén mà bướm không ra được, ông lấy con dao sắc ra rạch vỏ kén giúp nó ra ngoài. Có điều sau một ngày mà con bướm vẫn không bay ra được, và cuối cùng nó chết.

Về sau, ông được một người bạn thân là nhà côn trùng học cho biết lý do con bướm không bay ra được, là do thiên nhiên đã xếp đặt cho nó phải tự phấn đấu để thoát ra khỏi cái kén. Ngày nào nó phát triển đến độ tự mình đạp bể cái kén chui ra ngoài, thì mới chứng tỏ nó phát triển đầy đủ và mới có khả năng sinh tồn được trong thiên nhiên. Muốn làm con bướm bay trên ngàn hoa rực rỡ, thì bướm phải trải qua thời kỳ làm con sâu lặng lẽ, rồi phải ẩn mình trong cái kén một thời gian, đợi ngày phát triển đầy đủ. Còn nếu ông rạch cái kén giúp nó ra ngoài trước thời hạn, là ông vô tình tiêu huỷ khả năng phát triển và sinh tồn của nó.

Chúng ta chẳng khác gì con bướm nọ: Thiên Chúa đã hoạch định cho chúng ta phải đấu tranh gian khổ, để nhờ đó chúng ta được tiến triển về mặt tâm linh. Chúa đã an bài mọi sự để vào một số thời điểm trong cuộc sống chiêm niệm của chúng ta, vào một số thời điểm trong cuộc sống tín trung của chúng ta, vào một số thời điểm trong cuộc sống thiêng liêng của chúng ta, chúng ta phải nỗ lực gian khổ. Vào những thời điểm ấy, Thiên Chúa ở rất gần chúng ta. Chúa biết rõ chúng ta cần phải chịu gian khổ một thời gian vì lợi ích riêng của chúng ta, vì nhờ những gian khổ này chúng ta mới được tăng triển về mặt thiêng liêng để trở thành những Kitô hữu vững mạnh (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật năm C, tr 133).

II. ĐỨC GIÊSU BAN THÁNH THẦN CHO CÁC MÔN ĐỆ

Nay Đức Giêsu ra đi, sự lưu truyền của Thiên Chúa trong Giáo hội không phải là một sự tồn kho bất động, bởi vì chính Chúa Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha sai đến nhân danh Đức Giêsu, làm nên sự lưu truyền này bằng cách dạy dỗ và nhắc nhở cho Giáo hội tất cả những gì Đức Giêsu đã ban bố khi còn ở trần gian.

Đúng vậy, Lời của Đức Giêsu không phải là một “sự vật”, nhưng là một “con người nào đó”. Dù Đức Giêsu đã ra đi, nhưng vẫn có một “Đấng khác” đến để tiếp tục Lời của Chúa Cha, một thầy phụ đạo thần linh, một thầy nội tâm, được Chúa Cha sai đến nhân danh Đức Giêsu.

Một thời kỳ đã kết thúc, thời kỳ người ta thấy được bằng mắt, nghe được bằng tai. Với biến cố Phục sinh, một thời kỳ mới bắt đầu, một cách thể khác cho liên hệ giữa Người và các môn đệ. Thời kỳ Chúa Thánh Thần mà “Cha sai đến nhân danh Thầy”. Người sẽ dẫn các ông tới chỗ hiểu thấu đáo lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu.

Léon Dufour giải thích rằng: “Tiếp theo thời kỳ mạc khải của Đức Giêsu Nazareth, là thời kỳ của Đấng bầu chữa. Người tỏ lộ cùng một mạc khải, nhưng đầy đủ, trọn vẹn. Sứ vụ của Đức Giêsu ở trần gian kết thúc, nhưng đối với các môn đệ, Chúa Thánh Thần còn rọi sáng những lời Đức Giêsu dạy rõ hơn khi các ông nghe lúc trước” (Lecture de l’Evangile selon Jean, Seuil, tr 120).

Nhiệm vụ của Chúa Thánh Thần là dạy dỗ và nhắc lại những điều Đức Giêsu đã dạy lúc tại thế. Khi nói nhắc lại thì không phải chỉ là ôn lại, nhưng theo cách nói của Thánh kinh, là khám phá ra ý nghĩa lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu dưới ánh sáng của biến cố Phục sinh.

Về vấn đề này, Léon-Dufour chú giải: “Khi nhắc các môn đệ nhớ lời của Đức Giêsu, Chúa Thánh Thần không chỉ lặp lại giọng điệu của Thầy cho những trí nhớ quá tệ, nhưng Người còn giải nghĩa dưới ánh sáng Phục sinh cho các ông nắm bắt được ý nghĩa mà, cho đến lúc này, còn rất tối tăm đối với các ông… Nhiệm vụ giải thích của Chúa Thánh Thần liên quan tới sứ điệp của Ngôi Con, nhằm làm cho cộng đoàn nơi mạc khải luôn được tiếp tục và hiện thực một cách sáng tạo trong đời sống các tín hữu. Như thế, lời Đức Giêsu luôn sống động qua thời gian” (Sđd, tr 132).

III. ĐỨC GIÊSU BAN BÌNH AN CHO CÁC ÔNG

Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng” (Ga 14, 27).

Theo phong tục Do thái, khi từ giã nhau, người ta thường chào nhau bằng “bình an” (shalom), nhưng ở đây sự bình an của Đức Giêsu để lại, không có ý nghĩa như lời chào từ biệt thông thường, vì thế gian chỉ có thể cầu chúc bình an chứ không thể tự mình ban bình an được, còn Đức Giêsu chính Người ban bình an riêng của Người.

Trong tiếng Hip-ri, bình an là Shalom, một chữ được dùng rộng rãi trong Thánh kinh. Nội dung từ ấy rất phong phú đến nỗi từ “bình an hay hoà bình” chỉ chuyển tải một phần ý nghĩa. Một cách tổng quát, nó có ý nghĩa một sự viên mãn phổ quát, một điều kiện trong đó không một vật gì được thiếu sót. Từ ấy diễn tả hạnh phúc hoàn hảo chỉ thuộc về Thiên Chúa. Khi người ta có bình an, người ta sống trong sự hiệp thông hoàn hảo với Thiên Chúa.

Vì vậy, bình an, đối với người quen thuộc Thánh kinh, không phải chỉ là vắng bóng bạo hành, tĩnh lặng tâm hồn, không có chiến tranh, mà chính là sức khoẻ, sự thịnh vượng, hạnh phúc sung mãn, ơn cứu độ. Và chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban bình an này.

Theo cha Cantalamessa, Đức Giêsu không nói tới một sự bình an bên ngoài, chủ yếu là không có chiến tranh, xung đột giữa các dân tộc và quốc gia khác nhau. Người nói đến bình an đó trong những dịp khác, chẳng hạn khi nói: “Phúc thay ai xây dựng hoà bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.

Trong đoạn Tin mừng hôm nay, Người nói đến một sự bình an khác, bình an nội tâm của con tim, của con người với chính mình và với Thiên Chúa. Điều này thật rõ ràng nơi lời nói mà Đức Giêsu thêm vào liền theo đó trong đoạn văn này của thánh Gioan: “Các con đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi”. Đây là sự bình an nền tảng nhất. Không có sự bình an này, thì không bình an nào khác có thể tồn tại. Từ mà Đức Giêsu sử dụng là “shalom”.

Người Do thái chào chúc lẫn nhau với lời này và vẫn còn làm thế; chính Đức Giêsu đã chào các môn đệ với lời này vào buổi chiều Phục sinh và truyền cho các môn đệ chào hỏi dân chúng cùng cách thức như thế: “Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: Bình an cho nhà này” (Lc 10, 5-6).

Đức Giêsu có thể ban bình an cho các môn đệ bởi vì chính Người sở hữu sự bình an: “Thầy ban cho các con sự bình an của Thầy”. Bình an là sự hiệp thông với Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu hiệp thông hoàn toàn với Thiên Chúa, Người có thể ban cho ta ơn bình an. Chúng ta có thể ban sự bình an nào nếu không phải là sự bình an của chúng ta? Người Kitô hữu có ơn gọi đem lại bình an. Nhưng khổ nỗi, thay vì chúng ta đem lại bình an cho người khác, chúng ta bắt họ chịu đựng sự bất an và bất hạnh của chúng ta.

Sự bình an thực sự chỉ có khi chúng ta tuân giữ lệnh truyền của Đức Giêsu là: “Các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13, 34). Về vấn đề này, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói: “Con đường của bình an chung cục phải đi qua trong tình thương và hướng tới việc tạo nên một nền văn minh tình thương. Giáo hội chăm chú nhìn về Đấng là Tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con và bất chấp mọi đe doạ không ngớt gia tăng, Giáo hội không ngừng hy vọng, Giáo hội không ngừng kêu cầu và phục vụ hoà bình của nhân loại trên trái đất” (Dominum et Vivificantem đoạn 67).

Không thể có bình an nếu không có sự tha thứ. Hãy tuân giữ luật yêu thương, và tha thứ cho nhau, ngay cả kẻ thù của mình (Mt 5, 44), thay vì luật báo thù – luật rừng. Bạo lực sẽ dẫn đến bạo lực. Báo thù không dẫn đến hoà bình. Chỉ có tình thương mới đem lại bình an thực sự mà thôi, vì Thiên Chúa là Tình yêu cũng là nguồn bình an (Ga 4, 8, 16; Rm 16, 20).

 

3. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

LÀM CHỖ Ở NƠI NGƯỜI ẤY

Chúng ta thường đặt câu hỏi: Thiên Chúa ngự nơi đâu?

Và thường trả lời ngay: thiên đàng.

Thiên đàng là nơi Chúa Giêsu hứa cho anh trộm lành:

“Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23, 43).

Khi nói đến thiên đàng, ai cũng ngước mắt lên (x. Ga 17, 1),

vì thiên đàng ở trên trời cao thẳm.

“Vinh quang Thiên Chúa trên tầng trời cao nhất” (Lc 2, 14).

Chúa Giêsu coi cái chết sắp đến là trở về nhà Cha trên trời.

Nhà này có nhiều chỗ ở cho các môn đệ (Ga 14, 2, monai).

Ngài ước mong được ở đó với họ mãi mãi (Ga 12, 26; 17, 24).

Chúa Giêsu phục sinh cũng nói đến việc Ngài lên cùng Cha:

“Thầy lên cùng Cha của Thầy, …

lên cùng Thiên Chúa của Thầy, …” (Ga 20, 17).

Quả thật, thiên đàng là đích đến của đời người tín hữu.

Trở về Nhà Cha, được vào Nước Trời, được lên thiên đàng:

đó là ước mơ của những ai đang hành trình vất vả.

Người Do-thái tin Thiên Chúa ngự trên trời,

và tin Đền Thờ dưới đất là nơi Ngài ngự.

Chúa Giêsu quý Đền Thờ và gọi đó là Nhà Cha (Ga 2, 16).

Như thế có Nhà Cha ở trên trời và Nhà Cha dưới đất.

Nhưng khi đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ,

Ngài lại khẳng định một điều hết sức mới mẻ.

Đền Thờ đích thực không phải là Đền Thờ Giêrusalem,

mà là “chính thân thể của Ngài” (Ga 2, 21).

Đền Thờ này sẽ bị người ta phá hủy,

nhưng “nội trong ba ngày, tôi sẽ dựng lại” (Ga 2, 19).

Khi Con Một Thiên Chúa, làm người có thịt xương,

chính thân thể của Ngài trở nên nên Đền Thờ,

nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa,

và là nơi con người có thể gặp gỡ Thiên Chúa.

Khi Chúa Giêsu trở về Nhà Cha,

khi Ngài không hiện diện bằng thân xác thể lý nữa,

Ngài vẫn muốn ở lại với các môn đệ của Ngài.

Trong bài Tin Mừng hôm nay,

Chúa Giêsu biết trước nỗi xao xuyến và sợ hãi của họ,

vì sự ra đi của Ngài sẽ tạo ra một khoảng trống lớn lao.

“Lòng anh em đừng xao xuyến, và đừng sợ hãi” (Ga 14, 27).

Thân mình Thầy sẽ bị người ta hành hạ và giết đi,

Đền Thờ là thân mình Thầy sẽ bị sụp đổ,

nhưng muôn ơn sẽ đến qua cái chết của Thầy.

Các môn đệ mất đi sự hiện diện thể lý của Thầy,

nhưng họ lại được dư tràn bao sự hiện diện khác.

Trước hết là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần.

Ngôi vị thần linh này do Chúa Cha sai đến

để ở với, ở giữa và ở trong anh em (Ga 14, 16-17).

Đây là Đấng Bảo trợ khác, cũng là vị Thầy khác.

Đấng ấy sẽ làm họ nhớ lại những gì Thầy Giêsu đã dạy

và đem áp dụng trong hoàn cảnh hiện tại (Ga 14, 26).

Hơn nữa, Thầy Giêsu còn bất ngờ hứa cho các môn đệ

một thiên đàng rất gần, nhỏ bé, đơn sơ và thân thương.

Nó ở nơi lòng người yêu mến Thầy và giữ lời Thầy dạy:

“Cha Thầy và Thầy sẽ đến với người ấy

và sẽ làm chỗ ở của mình nơi người ấy” (Ga 14, 23).

Như thế tâm hồn của người tín hữu đạo đức

trở thành chỗ ở của Thiên Chúa, thành thiên đàng.

Thân thể Chúa Giêsu phục sinh là Đền Thờ mới

được xây dựng lại sau khi bị phá hủy.

Và tâm hồn mỗi tín hữu cũng là một đền thờ,

nơi có Chúa Ba Ngôi ngự trị, thường trú.

Khi cầu nguyện với Thiên Chúa,

chúng ta vẫn ngước mắt lên trời.

Nhưng cũng có khi ta nên quay vào trong lòng mình

để ý thức về sự hiện diện và hoạt động của từng Ngôi.

Kitô hữu là người mang thiên đàng nơi mình,

và muốn chia sẻ thiên đàng đó cho người khác.

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa,

Nếu con cứ mãi bực bội

vì một lời nói thiếu tế nhị,

nếu con cứ nuôi cơn giận

vì một hành vi khiếm nhã,

thì tim con chẳng được bình an.

Nếu con cứ dằn vặt mình

vì một điều mình va vấp,

nếu con không sao chịu nổi

những sai sót của bản thân,

thì tim con chẳng được bình an.

Nếu con ưu tư phiền muộn

vì những yếu đuối của mình,

nếu con cay đắng ghen tỵ

vì những thành công của người khác,

thì tim con mãi mãi chẳng được bình an.

Lạy Chúa,

bình an là một ơn rất lớn,

vậy mà con thường dễ dàng đánh mất

chỉ vì những chuyện không đâu.

Xin giải thoát con khỏi cái tôi nặng nề,                                                 

để lòng con nhẹ nhàng thanh thản.

Xin cho tim con vui trở lại

Và chữa con khỏi mọi tổn thương.

 

Tin Giáo Xứ

Tin Gp. Bùi Chu

Tin Giáo hội Việt Nam

Tin Giáo hội Hoàn Vũ