Trải qua 200 năm, nhờ hồng ân Thiên Chúa, nhờ lời cầu bầu của Mẹ Maria, thánh Vinh Sơn quan thầy và nhất là Thánh tổ Giu Se Hiền, người là Cha xứ đầu tiên, về đây khai sáng ra mảnh đất: Địa linh nhân kiệt này ( Đất linh thiêng, sinh ra những người con bước theo chân Cha Thánh Tổ, đủ tài năng đức độ, một lòng tận tuỵ phục vụ Chúa, phục vụ Giáo Hội, không màng tiền tài vật chất, hằng vâng lời các đấng bề trên bổ nhiệm bất cứ đi đâu, dù khó khăn gian khổ, những nơi có sự tranh chấp hiểu lầm, mâu thuẫn mất đoàn kết, khi đến nhận xứ đều dung hoà được, như lời thánh Phan Xi Cô : “ đưa an hoà vào nơi tranh chấp” làm cho mọi người hiểu biết, thông cảm, tha thứ cho nhau, lại đoàn kết cùng nhau xây dựng ngày tốt đẹp. Khi đi, khi đến chỉ mang các vật tuỳ thân, không mang những đồ vật mà mình không mang đến, không để lại sự mất đoàn kết hay để lại công nợ cho Giáo xứ nên bà con Xuân Dục được tự hào với các Linh mục quê hương. Đọc qua các tiểu sử của các linh mục thì thấy rõ.
Xin trân trọng giới thiệu đôi nét tiểu sử và đặc điểm của các Linh mục
LINH MỤC QUÊ HƯƠNG
Sinh năm 1887 tại Xuân Dục
Con ông bà cố Vinh Sơn+ Maria Mai Văn Mỹ
Dòng tộc thuộc Họ tổ số 46
Thụ phong Linh mục năm 1919
Cha giáo trường Trung Linh và coi các xứ Kiên Chính, Trung Thành, Xuân Dương, Ninh Cường. Năm 1954 vào Nam, coi xứ Tân Mai ( Biên Hoà)
Tạ thế ngày 23-7-1964, thọ 78 tuổi.
An nghỉ tại Nghĩa trang Tân Mai- Biên Hòa.
Sinh năm 1914 tại Xuân Dục
Con ông bà cố Vinh Sơn và Maria Nguyễn Văn Dạng
Dòng tộc thuộc họ tổ số 24
Thụ phong Linh mục ngày 20-6-1946 tại Bùi Chu
Quá trình mục vụ
Coi xứ: Thức Hóa, Kiên Lao, Phú Nhai. Vào Nam năm 1954, coi xứ Đà Lạt. Người có nhiều công sức với đồng hương Xuân Dục ở Bùi Phát- Sài Gòn, rồi sang Hoa Kỳ ở 5271 Cẻntal Ave Riversi D. C, C. A. 92504 Hoa kỳ
Tạ thế ngày 28-4-1998 tại Hoa Kỳ, thọ 84 tuổi
Sinh ngày 10 tháng 5 năm 1916 tại Xuân Dục
Con ông cố Vinh Sơn Mai Văn Tập và bà cố Maria Nguyễn Thị Giã
Dòng tộc thuộc họ tổ số 53
Khấn Dòng Đa Minh ngày 19-9-1939 tại Hồng Kông
Thụ phong Linh Mục 19-6-1943 tại Khoái Đồng- Nam Định
Quá trình mục vụ
Năm 1944- 1945, Phó xứ Khoái Đồng- Nam Định
Năm 1946, Chánh xứ Yên Vỹ- Hưng Yên
Năm 1951, du học ở Rô Ma
Năm 1954, về miền Nam- Giáo sư Chủng viện Thái Bình tại miền Nam
Năm 1960, Bề trên tu xá Đà Lạt, Vũng Tàu
Năm 1967 Cha Xứ đầu tiên xứ Đa Minh Ba Chuông- Sài Gòn, sau đó, Chánh xứ Thánh Tâm- Hố Nai- Thủ Đức- Sài Gòn
Tạ thế ngày 1 tháng 2 năm 1973. An nghỉ tại Nghĩa trang Học viện Đa Minh- Thủ Đức- Sài Gòn, thọ 58 tuổi.
Sinh ngày 18-3-1920 tại Xuân Dục
Con ông bà cố Vinh Sơn và Maria Phạm Văn Lĩnh
Dòng tộc thuộc họ tổ số 67
Thụ phong Linh mục ngày 20 tháng 6 năm 1946, tại Bùi Chu
Quá trình mục vụ
Xứ Trung Đông- Thái Bình, xứ Cao Mộc- Cao Mại- Thái Bình, xứ Tân Lập-
Thủ Đức- Sài Gòn.
Tạ thế 17-8-1978 tại Tân Lập- Sài Gòn, thọ 59 tuổi
Sinh năm 1940 tại Xuân Dục
Con ông bà cố Vinh Sơn + Maria Ngô Văn Chiếng
Dòng tộc thuộc họ tổ số 30
Thụ phong Linh mục 14-5-1968, tại Sài Gòn
Quá trình mục vụ
Coi Giáo xứ Tân Lập, Giáo xứ Thánh Khang. Giáo sư Trường Nguyễn Bá Tòng, Cha xứ Giáo xứ Thanh Tịnh, năm 1978 tuy trong thời gian kinh tế khó khan, vật liệu khan hiếm thi công không được tự do, song Cha sửa sang nhà thờ nhà xứ được thêm rộng rãi, khang trang rồi chuyển về Giáo xứ An Lạc. Một thời gian sau chuyển về Giáo xứ Bình Lợi, thuộc Quận Tân Bình, cùng với bà con Giáo dân kiến thiết nhà thờ, nhà xứ thì nhỏ hẹp, qua thời gian đã xuống cấp, Cha vận động những người có lòng hảo tâm hưởng ứng ủng hộ, bà con giáo dân không phải đóng góp. Cha xây nhà xứ hai tầng, có nhiều phòng có quy mô rộng rãi. Nhà thờ cũng vào loại tương đối, ghế ngồi đầy đủ, nội thất khang trang, nhà thờ cao ráo thoáng mát
Sinh 18/2/1966 tại Xuân Dục
Con ông cố Vinh Sơn Ngô Minh Phước
Bà cố Maria Nguyễn Thị Đằm
Thuộc dòng tộc họ Tổ số 30
- 1995-2002, tu học tại đại chủng viện Paris- Pháp Quốc
- 29/6/2002 thụ phong Linh mục tại nhà thờ Đức Bà Paris
- 2002-2005 tu học tại trường Ecole Notre Dame de Paris
và phục vụ tại giáo xứ Saint Denys du Saint Sacrement
– 2005-2007 phục vụ tại Toà Giám mục Bùi Chu
– 2007-2010 xây dựng nhà hưu dưỡng linh mục Bùi Chu
và chánh xứ Xuân Hóa, Xuân Hóa.
– 2010 đến nay, quản lý Tòa Giám Mục Bùi Chu
và dậy học tại Đại Chủng viện Bùi Chu
Sinh năm 1958 tại Xuân Dục
Con ông cố Vinh Sơn Nguyễn Văn Trang
Bà cố Maria Đỗ Thị Tin
Dòng tộc thuộc họ Tổ số 28
Khẩu hiệu- Không phải con chọn Ta, nhưng chính Ta đã chon con và cắt đạt con đi. và mang lại hoa trái. và để hoa trái các con tồn tại (Gio an. 15:16 )
Bước đường xuất ngoại Truyền Giáo
Ngày 15-5-1980 rời Việt Nam cùng với trên 60 người bằng một cái thuyền nhỏ. Sau mấy ngày vừa bị sóng say, thiếu nước uống và thức ăn, thì được tàu Đức vớt và đưa về Singapo, ở đó một tháng rồi chuyển qua Indonesia, ở đấy thêm 3 tháng nữa thì được đem sang Đức.
Ngày 30-9-1980 thì được đặt chân tới Đức Quốc. Ở Đức, trong 7 tháng đầu đi học tiếng Đức, sau đó vào trường Phổ thông học cho đến hết Phổ thông
Ngày 1/9/1983 – 1987 học Trường Cao đẳng kỹ thuật, ngành cơ khí, chuyên về sửa xe máy.
Ngày 12-10-1987 gia nhập Dòng truyền giáo Phi Châu. Học phần đầu chương trình Triết học trường đại học Tây Đức
Tháng 8-1989 thì qua nhà tập ở Zambia ( Trung Phi) một năm
Năm 1990, chuyển qua Uganda- Châu Phi, sinh hoạt Nhà Tập tiếp
Năm1992 về London- Anh Quốc, học thần học
Ngày 2-7-1995, khấn trọn vào dòng Truyền giáo Châu Phi, sau đó bề trên Dòng gửi học thêm về kỹ thuật và quản lý ở trường đại học Luân Đôn. Sau khi tốt nghiệp môn kỹ thuật và quản lý, được nhà dòng gửi đi làm việc tuyền giáo ở Uganda, làm giám đốc trường và huấn luyện nghề cho sinh viên bản xứ Uganda và ngoại quốc
Năm 2000 Nhà Dòng lại gọi về Luân Đôn học thêm thần học để chuẩn bị chịu chức Linh mục. Đến ngày 15/12/2001 thì được chịu chức Phó tế tại Thánh đường Giáo xứ Woodgreen- Luân Đôn- Anh Quốc.
Đến ngày 26/6/2002 cũng nhằm ngày đại lễ hai Thánh Tông đồ Phê Rô và Phao Lô, thì được chịu chức Linh mục tại giáo xứ Đức Mẹ Maria Oldenbrg- Cộng hoà Liên bang Đức. Cũng năm 2002 được bài sai qua Tanzania. Khi đặt chân đến Tanzania, việc đầu tiên của người truyền giáo phải làm đó là học ngôn ngữ địa phương và phong tục tập quán của người bản xứ. Ở Tanzania ngôn ngữ chính là Kiswahili. Sau khi học hết khoá tiếng và phong tục tập quán địa phương, hai tháng rưỡi ở trường ngôn ngữ học, được Nhà Dòng gửi đến làm mục vụ ở một Giáo xứ với 40 họ lẻ. Người bản xứ này lại thêm ngôn ngữ của họ, nên lại vừa học vừa làm. Người dân ở giáo xứ đa số làm nghề nông và ngư phủ ở biển hồ Victoria, do vậy việc truyền giáo cũng kèm theo việc dậy học chữ, dạy nghề và dạy Giáo lý, xây dựng các điểm truyền giáo. Ở xứ đạo này chỉ khoảng một năm lại được nhà dòng gửi đến một Giáo xứ khác với diện tích nhỏ hơn, chỉ có 12 họ lẻ, song lại có số giáo dân đông hơn, với khoảng trên 40 nghìn giáo dân, chính thức đăng ký và một số khác trạm trú. Vì là Giáo xứ thành phố nên việc mục vụ cũng phức tạp hơn. Giáo xứ này mới được thành lập từ năm 1989. Người ở các miền của đất nước đổ về đây lập nghiệp, vì công ăn việc làm nhiều hơn. Năm 2004, ba họ lẻ được chia ra, thành lập Giáo xứ mới. Cũng khoảng thời gian này, hai họ lẻ khác được thành lập, dầu vậy, công việc mục vụ vẫn còn rất nặng. Hằng năm, có thêm mấy trăm người lớn và trẻ em được chiu phép rửa tội. Cứ hai tháng một lần, trẻ em được rửa tội, mỗi lần như vậy có khoảng 50 đến 60 em. Một năm hai lần, rửa tội cho các học sinh, tuổi từ 6 đến 14 tuổi, mỗi lần khoảng 200 đến 300 em. Trẻ em được rước lễ lần đầu mỗi năm khoảng 500 đến 600 em, chịu phép thêm sức có năm cũng trên 800, như năm 2007. Năm 2009 Giáo xứ có hai Linh mục chịu chức. Như là năm hồng ân của Giáo xứ, được phép của Đức Giám Mục, tất cả các em từ không đến năm tuổi tròn đều được rửa tội, cho dầu cha mẹ chưa kết hôn chính thức, hay một trong hai người chưa được rửa tội, hay một lý do nào khác. Con số trẻ em được rửa tội trong Tuần Hồng Phúc năm 2007 lên trên 2500 em. Năm đó, tổng cộng trên 3000 trẻ em được lĩnh nhận Bí tích rửa tội. Năm 2010, Giáo xứ Cha đang phục vụ có khoảng 2000 người, kể cả ngưừi lớn và trẻ em. Trong các dịp lễ lớn, các Linh mục phải ngồi hàng ngày để giải tội. Mỗi tuần một ngày, các bệnh nhân ở họ lẻ được Linh mục đến thăm viếng và cho chịu Phép Bí tích. Hôn nhân kể như tuần nào cũng có, chỉ trừ trong mùa Chay và mùa Vọng
Họ lẻ biệt lập nào cũng đủ ban bệ: Ban Hành giáo và các ban ngành như một Giáo xứ. Mỗi năm họp Đại Hội đồng Giáo xứ hai lần, nếu bà con đi hết thì mấy trăm người.
Linh Mục làm việc với khoảng 28 giáo lý viên và trong số đó nửa là các thầy cô dậy Giáo lý, các trường thuộc Địa Hạt của Giáo xứ chỉ có hai trường cấp một và cấp hai. Giáo xứ có văn phòng đặc biệt, chăm sóc các bệnh nhân SIDA và trẻ em mồ côi. Các trẻ mồ côi được văn phòng giúp đỡ các phương tiện tối thiểu như quần áo, dụng cụ học tập, tiền học phí, thuốc men, một phần lương thực. Hiện giờ đã có 800 em được văn phòng giúp đỡ.
Các phương tiện như nhà thờ là trung tâm phụng vụ, hội họp và học hành. Mọi người được dạy Giáo lý ở các nhà thờ vì phòng học còn thiếu thốn. Những người lớn muốn nhập vào Giáo hội thì ít nhất phải học Giáo lý trên hai năm. Xưng tội lần đầu hay Thêm sức thì một năm.
Riêng Nhà thờ Giáo xứ cứ phải cơi nới rộng hoặc xây lại liên tục, vì xây mới và rộng rãi luôn một lần thì không đủ kinh phí, do vậy cứ xây vừa sức và số lượng giáo dân ở Giáo xứ lại tăng rất nhanh, không những người ta đến lập nghiệp và con số trẻ sinh them, cộng với số người xin được trở lại đạo cũng nhiều. Có những Nhà thờ làm bằng tranh tre lá nứa, nhiều khi đang dâng lễ thì trời mưa, Nhà thờ bị dột, bà con xô đẩy nhau tránh mưa. Khi dự lễ, Giáo dân có gì mang theo, kể cả gà, vịt, ngan, dê đều mang dâng của lễ. Những ngày sau, Linh mục lại mang các thứ đó phân phát cho các người tàn tật, cô đơn, nghèo túng. Với một Châu kinh tế còn nghèo, dân trí còn thấp, tập quán còn lạc hậu, đời sống kinh tế còn khó khan, tập quán có nơi còn ăn bốc, lương thực thì khan hiếm không đủ, nhiều khi còn phải ăn chuối luộc thay cơm
Ở tại Tổng Giáo phận MWANZA này có khoảng một triệu hai trăm ngàn Giáo dân và mỗi Linh mục chăm sóc khoảng hai mươi nghìn Giáo dân. Nhiều Giáo xứ, Giáo dân ở rải rác, đường xá thì xấu nên việc đi lại rất khó khăn. Có Giáo xứ có những trên 70 họ lẻ biệt lập, cả năm mới được một thánh lễ, dầu là ngày thường trong tuần. Có những nơi Linh mục đi các họ lẻ từ thứ hai đến thứ bảy thì mới trở lại trung tâm Giáo xứ đó cũng là tiến bộ nhiều trước đây khi chưa có đường xá giao thông như bây giờ, các nhà truyền giáo mỗi lần đi là cả tháng mới về, đi từ họ lẻ này đến họ lẻ kia, toàn đi bộ. Những người chuẩn bị được rửa tội, tiễn đưa và di chuyển giúp các vật dụng của các nhà truyền giáo sang họ lẻ bên.
Đến tháng 4 năm 2011 -nh dịng chuyển về Thủ đơ Tanzania l Đơ Ma, lm quản l# cho tỉnh dịng với 250 Linh Mục của 4 Nước. khơng phải coi xứ đạo
Đây chỉ tóm tắt vài công việc của một người truyền Giáo Châu Phi ở cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21
Con ông cố Vinh Sơn Nguyễn Văn Hứa, bà cố Maria Đỗ Thị Lượt, quê Tang Điền
Sinh ngày 20 tháng 11 năm 1958
Dòng tộc thuộc họ tộc số 21
Thụ phong Linh mục ngày 24 tháng 3 năm 2004
Khẩu hiệu: Nguyện ý Cha thể hiện
Ngày 15 tháng 4 năm 2004: Phó xứ Chính toà Kon Tum
Ngày 29 tháng 5 năm 2005: Chánh xứ Kon Jơdreh- KonTum
Ngày 01 tháng 11 năm 2010: Chánh xứ Măng La- Kon Tum
Xã Ngok Bay- Thành phố Kon Tum
Hiện tại đang làm Chánh xứ giáo xứ Plei Jơdrơp – Gp Kon Tum
Đặc điểm: coi một Giáo xứ đồng bào thiểu số, kinh tế còn nghèo, dân trí thấp, phong tục tập quán thì lạc hậu, Linh muc phải hoà mình với giáo dân, ăn cơm có không cần bát đĩa mà ăn bốc, song các Linh muc vì việc sáng danh Chúa hữu ích cho Giáo hội sẵn sàng hy sinh tiếp nhận, để đưa ánh sáng phúc âm đến cho mọi người.
Sinh Ngày 19/1/1976 Tại Xuân dục
Con ông cố Vinh Sơn Mai Văn Báu
Bà cố Maria Ngô Thị Lan
Dòng Tộc thuộc họ tộc số 53
Gia nhập Chủng viện Paris- Pháp năm 2001
Thụ phong Linh mục ngày 23/6/2007 tại nhà thờ Đức Bà Paris- Pháp
Hiện đang làm chánh xứ Giáo xứ Du Hiếu
Sinh ngày 20/02/1978 tại Xuân Dục
Con ông cố Gioan Nguyễn Quốc Tuấn
và cố Mari Mai Thị Hoa.
Dòng tộc thuộc họ tổ số 14
Lính thừa tác vụ Phó tế Ngày 25/03/2009
Tại nhà thờ chính toà Hà Nội
Thụ phong Linh mục ngày 3 tháng 9 năm 2009
Tại Nhà thờ chính toà Giáo phận Bùi Chu
Lễ mở tay ngày 8 tháng 9 năm 2009
Tại Nhà thờ quê hương Xuân Dục
Sinh ngày 8 tháng 8 năm 1974 tại Xuân Dục
Con ông cố Vinh Sơn Nguyễn Văn Trang ( Rần)
Và bà cố Maria Đỗ Thị Tin
Là em ruột Linh mục Vinh Sơn Nguyễn Ngọc Trấn và Phó Tế vĩnh viễn Vinh Sơn Nguyễn Công Trứ
Nguyên quán- Xuân Dục, xã Xuân Ninh, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định
Dòng tộc thuộc họ tộc số 28
Đến định cư tại cộng hoà Đức năm 1988
Gia nhập dòng Tên tại Cộng hoà Đức năm 2002, tại Nuer buerg Cộng hoà Đức
Khấn dòng năm 2004 tại Nuerg Cộng hoà Đức
Chịu chức Phó Tế ngày 14 tháng 4 năm 2012 tại Luân Đôn- Anh Quốc
Thụ phong Linh mục ngày 27 tháng 10 năm 2012 tại Bá Linh- Đức
Thánh lễ tạ ơn ngày 4 tháng 11 năm 2012 tại S.T.Marien Oldenburg- Đức
Nhận xứ ngày 12 tháng 11 năm 2012 Goettingen- Cộng hoà Đức
Khẩu hiệu: Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin ( Mc.4-40)
Sinh ngày 16 tháng 6 năm 1976
Nguyên quán tại Giáo xứ Xuân Dục, Giáo phận Bùi Chu
Con ông cố Vinh Sơn Nguyễn Văn Khinh
Và bà cố Maria Nguyễn Thị Liễu
Định cư tại Giáo Phước Lộc, Giáo phận Bà Rịa Vũng Tàu
Dòng tộc thuộc số 21
Khấn Dòng Salêdileeng DonBosco
Lĩnh thừa tác vụ Phó Tế ngày 14 tháng 6 năm 2014
Thụ phong Linh mục ngày 7 tháng 8 năm 2015
Lễ mở tay tại Giáo Phước Lộc, ngày 8 tháng 8 năm 2015
Lễ tạ ơn cầu cho tiền nhân tại Xuân Dục ngày 29-8-2015
Khẩu hiệu: Điều đẹp ý ngài xin dậy con thực hiện ( Tv.142.10)
Sinh ngày 20-11-1962 tại Giáo xứ Xuân Dục
Con ông cố Vinh Sơn Nguyễn Văn Trang ( Rần)
Và bà cố Maria Đỗ Thị Tin
Nguyên quán tại thôn Xuân Dục, xã Xuân Ninh, huyện Xuân Trường, Nam Định
Trạm cư tại Giáo xứ Song Vĩnh, xã Phước Hoà, huyện Tân Thành, Bà Rịa Vũng Tàu
Nay định cư tại Heidkampe weg 10 26127 Ol denburg Germany, thuộc quốc tịch Liên bang Đức
Dòng tộc thuộc họ tộc số 28
Trình độ Văn hoá: năm 1967 học Tiểu học và Trung học tại Xuân Trường, năm1980 học lấy bằng Tú Tài tại Bà Rịa Vũng Tàu. Năm 1980 sang Cộng hoà liên bang Đức, 1987 lập gia đình, đến năm 2008 đã làm bốn khoá Chánh trương tại Giáo xứ ở Đức Quốc. Chiểu theo Công đồng Vaticanum II, tái lập Thánh chức Phó Tế dành cho những người đã lập gia đình. Từ tháng 12-2007 theo ơn gọi trở thành Phó Tế vĩnh viễn, theo tu học Thần học tại Cộng hoà Đức, thời gian là 4 năm rưỡi
Kết thúc chương trình Thần học vào tháng 7/2011
Phục vụ tại Giáo xứ sở tại là Marien Ol denburg Đức từ 1987
Công việc là giúp đỡ người bệnh nhân, người cô đơn, thăm tù nhân, người tỵ nạn và hướng dẫn các hội đoàn trong Giáo xứ
Ngày 20/11/2011, lúc 14 giờ 30 được tiến chức Phó Tế vĩnh viễn dưới sự đặt tay do Đức Giám mục Địa phận Muenster Dr. Felix Genn
Công việc chính sau khi chịu chức: Phục vụ Lời Chúa trong Thánh lễ, phụ tế trong các Thánh lễ, đặt Mình Thánh Chúa, Rửa tội, Làm phép Hôn phối, Làm phép ảnh tượng, các Á tích, dạy Giáo lý Hôn nhân, Thêm sức, Xưng tội lần đầu và việc khác liên quan đến phục vụ Hội thánh Chúa
Sinh năm 1982, khấn lần đầu trong DCCT năm 2011. Sau đó ngài đi học tại Davao, Philippines trong 5 năm.
Con ông bà Cố Vinh Sơn, Maria Hoàng Văn Tống
Ngày 1/7/2017 đã được Đức tổng giám mục Phaolo Bùi Văn Đọc, Tổng Giáo phận Sài Gòn truyền chức linh mục tại nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài Gòn.
Thánh lễ tạ ơn tại Giáo xứ Xuân Dục vào ngày 05/07/2017
LINH MỤC QUÊ NGOẠI Ở GIÁO XỨ XUÂN DỤC
Con ông cố Giuse Trần Đình Trọng- Hạ Linh và bà cố Maria Nguyễn Thị Thêu- Xuân Dục, cháu ngoại cụ Trùm Vinh Sơn Nguyễn Văn Trụ
Dòng tộc thuộc Họ tộc số 28
Sinh năm 1937
Thụ phong Linh mục ngày 21 tháng 5 năm 1966
Tại Phi la del phia
Quá trình Mục vụ
Tạ thế năm 1972 Tại Hoa kỳ
Sinh năm 1944
Con ông cố Giuse Đinh Hữu Tài và bà cố Maria Nguyễn Thị Lê, cháu ngoại cụ Trùm Vinh Sơn Nguyễn Văn Trụ
Nguyên quán- xứ Xuân Hoá, xã Hải Xuân, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định
Dòng tộc thuộc Họ tổ số 28
Thụ phong Linh mục ngày 29 tháng 4 năm 1970 tại Sài Gòn
Quá trình mục vụ
Giáo sư Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn. Đào tạo một số các Linh mục cho Giáo phận Bùi Chu những năm 1990 đến năm 2000 coi Giáo xứ Viện Sỹ, Giáo xứ Bàn Cờ, Giáo xứ Đức Mẹ Vô nhiễm, đến nay vẫn làm nhiệm vụ ở Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn.
Sinh ngày 25 tháng 6 năm 1945
Con ông cố Tôma Vũ Hữu Nghĩa và bà cố Maria Vũ Thị Mến, xứ Ninh Mỹ, xã Hải Giang, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định
Cháu ngoại cụ Chỉ Riễm
Dòng tộc thuộc Họ tổ số 28
Thụ phong Linh mục ngày 14 tháng 12 năm 1973 tại Sài Gòn
Quá trình Mục vụ
Cha xứ nhà thờ Giáo xứ Góng Tre, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre, Giáo phận Vĩnh Long
Sinh ngày 25 tháng 7 năm 1948
Con ông cố Gioan Baotixita Lã Văn Chinh và bà cố Maria Đinh Thị Nụ
Xứ Trùng Phương, xã Hải Đường, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định
Cháu cụ Giáp Hiển
Dòng tộc thuộc Họ tổ số 28
Khấn ngày 15 tháng 8 năm 1972
Thụ phong Linh mục ngày 15 tháng 11 năm1978
Quá trình mục vụ
Dậy Giáo luật tại Tu viện Đa Minh Sài Gòn
Cố vấn toà Giám mục Sài Gòn
Cha Chánh xứ Ba Chuông Đa Minh Sài Gòn
Tạ thế ngày 10/12/ 2004 tại Giáo xứ Đa Minh Sài Gòn.
Sinh ngày 16 tháng 4 năm 1956
Con ông bà cố Gioakim và Maria Vũ Hoàng, cháu cụ Maria Vũ Oánh, họ Phú An, xã Xuân Ngọc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định
Dòng tộc thuộc Họ tổ số 26
Nhập Chủng viện Sài Gòn ngày 15 tháng 8 năm 1968
Thụ phong Linh mục ngày 21 tháng 12 năm 1991 tại Sài Gòn
Quá trình mục vụ
Năm 1992 Phụ tá xứ Trung Chánh
Năm 1995 Phụ tá xứ Tân Hoà
Hiện nay Chánh xứ Vĩnh Hoà. Ngài về xứ Vĩnh Hoà cùng với bà con giáo dân làm ngôi nhà toàn bằng đá, là một công trình rất đặc biệt, khi khánh thành có hai Đức Giám mục hai Địa phận cùng về cắt băng
Sinh ngày 28 tháng 11 năm 1962
Con ông bà cố Giuse Đặng Văn Tính, bà cố Maria Nguyễn Thị Lân, tỉnh Bắc Ninh, cháu ngoại cụ Maria Nguyễn Thi Quế ( Tuyết)
Dòng tộc thuộc Họ tổ số 9
Thụ phong Linh mục ngày 21 tháng 1 năm 2000
Tại xứ Đa Minh Sài Gòn, Dòng Đa Minh
Quá trình Mục vụ
Sau khi thụ phong Linh mục, được bổ nhiệm Phó xứ Cao Xá, Giáo phận Phú Cường
Đến năm 2005, Chánh xứ Giáo xứ Thánh Mẫu hoà bình, Giáo phận Phú Cường, tỉnh Tây Ninh
Sinh ngày 5 tháng 10 năm 1960
Con ông bà cố Vinh Sơn và Maria Nguyễn Văn Khâm
Cháu ngoại cụ Vinh Sơn Vũ Viết Tuyền
Tại Giáo xứ Hai Giáp, Hải Anh, Hải Hậu, Nam Định
Dòng tộc thuộc Họ tổ số 71
Thụ phong Linh mục ngày 9 tháng 6 năm 2007
Coi xứ Lục Phương, xã Hải Cường, Hải Hậu, Nam Định
Giáo xứ Minh Đường, thuộc Hạt Đại Đồng, Giao Thuỷ
CÁC TU SỸ Ở GIÁO XỨ XUÂN DỤC
1. Thầy tu sỹ Vinh Sơn Mai Đức Khâm
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Mai Văn Tập
Họ tổ số 53
Sinh năm 1933, sinh viên Đại Chủng viện Mỹ Đức, Giáo phận Thái Bình
Tạ thế năm 1951, an nghỉ tại Thánh địa Nhà chung Mỹ Đức
2. Thầy tu sỹ Vinh Sơn Nguyễn Ngọc Phan
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Nguyễn Văn Hạnh ( cụ lang Hạnh)
Họ tổ số 7
3. Thầy tu sỹ Vinh Sơn Nguyễn Văn Phước
Con ông bà cố Vinh Sơn Maria Nguyễn Văn Khiển
Họ tổ số 14
4. Thầy tu sỹ Vinh Sơn Nguyễn Văn Thịnh, tu tại Giáo phận Bùi Chu
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Nguyễn Văn Hoá ( cụ đồ Hoá)
Họ tổ số 21
Qua đời, an nghỉ tại thánh địa Nhà chung Bùi Chu
5. Thầy tu sỹ Vinh Sơn Nguyễn Văn Nam, tu Dòng Salêdiêng
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Nguyễn Viết Khinh
Họ tổ số 21
6. Thầy tu sỹ Vinh Sơn Mai Đức Hoà, tu tại Hoa Kỳ
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Mai Văn Thi
Họ tổ số 53
7. Thầy tu sỹ Vinh Sơn Nguyễn Văn Phú
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Nguyễn Văn Thiện ( Tử đạo)
Họ tổ 22
8. Thầy tu sỹ Vinh Sơn Nguyễn Đức Nhuận
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Nguyễn Văn Thuần
Họ tổ số 23
Tạ thế 15/11/1982, an nghỉ tại trung tâm Thánh địa Xuân Dục
9. Thầy tu sỹ Vinh Sơn Nguyễn Hữu Nghĩa, tu tại Giáo phận Thái Bình
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Nguyễn Văn Hinh ( cựu Hinh)
Họ tổ 26
10. Thầy tu sỹ Vinh Sơn Nguyễn Đức Kim
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Nguyễn Văn Hiến
Họ tổ số 28
11. Thầy tu sỹ Vinh Sơn Nguyễn Văn Mạo
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Nguyễn Văn Ngãi
Họ tổ số 28
12. Thầy tu sỹ Vinh Sơn Mai Viết Sinh
Con ông bà cố Vinh Sơn Mai Văn Kiểng
Họ tổ số 60
13. Thầy tu sỹ Vinh Sơn Ngô Văn Thuỷ, sinh viên Đại Chủng viện Bùi Chu
Con ông bà Vinh Sơn, Maria Ngô Văn Viện
Họ tổ số 30
14. Thầy tu sỹ Vinh Sơn Mai Văn Hậu
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Mai Văn Hài
Họ tổ số 37
15. Thầy tu sỹ Vinh Sơn Mai Ngọc Phan
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Mai Văn Riệp
Họ tổ số 45
16. Thầy tu sỹ Vinh Sơn Mai Trọng Thanh
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Mai Văn Tập
Họ tổ số 53
Sinh 1925 sinh viên Đại Chủng viện Bùi Chu
Tạ thế 1952, an nghỉ tại Thánh địa Nhà chung Bùi Chu
CÁC NỮ TU Ở GIÁO XỨ XUÂN DỤC
1. Nữ tu Maria Nguyễn Thị Hiến, Dòng Đa Minh Xuân Lộc
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Nguyễn Văn Ty
Họ tổ số 9
2. Nữ tu Maria Bích, Dòng Mân côi Trung Linh, Bùi Chu
Con ông bà cố Gioankim, Maria Bình- Phú An
Họ tổ số 14
3. Nữ tu Maria Nguyễn Thị Chi, tu Dòng Mến Thánh Giá, Giáo phận
Thái Bình. Đã qua đời và đã cải tang về Giáo xứ Xuân Dục
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Nguyễn Văn Thụ
Họ tổ số 21
4. Nữ tu Maria Nguyễn Thị Hiền, tu tại Giáo phận Xuân Lộc
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Nguyễn Văn Thưởng
Họ tổ số 21
5. Nữ tu Maria Huyền, tu tại Dòng Mến Thánh Giá, Chợ Quán
Con ông cố Vinh Sơn và bà cố Maria Nguyễn Văn Thủy
Họ tộc số 21
6. Nữ tu Maria Nguyễn Thị Lan, sinh 1936, tu Dòng Trinh Vương, Giáo phận Bùi Chu, khấn 1983
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Nguyễn Văn Bốn
Họ tổ số 21
7. Nữ tu Teresa Nguyễn Thị Hiền, tu Dòng Đa Minh, Giáo phận Xuân Lộc
Con ông bà Vinh Sơn, Maria Nguyễn Ngọc Ruông
Họ tổ số 28
8. Nữ tu Maria Nguyễn Thị Mát, tu Dòng Mến Thánh Giá, Hố Nai, Biên Hoà
Tạ thế, an nghỉ tại Thánh địa Nhà dòng
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Nguyễn Văn Hạp
Họ tổ số 29
9. Nữ tu Maria Nguyễn Thị Thanh Lan, tu dòng Đa Minh Pari Pháp
Con ông bà cố Vinh Sơn và Maria Nguyễn Ngọc Doanh
Họ tổ 29
10. Nữ tu Maria Nguyễn Thị Huệ, tu Dòng Đa Minh Xuân Lộc
Con ông cố Vinh Sơn, Maria Nguyễn Ngọc Doanh
Họ tổ số 29
11. Nữ tu Maria Ngô Thị Loan, tu tại Giáo phận Xuân Lộc
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Ngô Văn Mão
Họ tổ số 30
12. Nữ tu Maria Ngô Thị Lụa, tu Dòng Mân côi Trung Linh, Bùi Chu
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Ngô Văn Thượng
Họ tổ số 30
13. Nữ tu Maria Mai Thị Hiền, tu Dòng ở Giáo phận Sài Gòn
Con ông bà cố Vinh Sơn và Maria Mai Vũ Huy
Họ tổ số 52
14. Nữ tu Maria Mai Thị Hương ,tu Dòng ở Giáo phận Sài Gòn
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Mai Vũ Huy
Họ tổ số 52
15. Nữ tu Teresa Mai Thị Tuyết Trinh, sinh 1934. Tu Dòng Nữ tu Đa Minh- Houston , bang Texas, Hoa Kỳ
Con ông bà cố Tập, em cha Mai Cao Hiển
Họ tổ số 53
16. Nữ tu Maria Mai Nguyên Thanh Hà, sinh 1962 tu tại Tu viện Đa Minh- Houston Texas, Hoa Kỳ
Con ông bà Vinh Sơn, Maria Mai Văn Thiệu
Họ tổ số 53
17. Nữ tu Maria Mai Thị Nghĩa, tu Dòng ở Giáo phận Sài Gòn
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Mai Viết Huân
Họ tổ số 57
18. Nữ tu Maria Mai Thị Hoa, tu Dòng Chúa Giesu
Con ông cố Mai Văn Kham và bà cố Mến
Họ tổ số 59
19. Nữ tu Maria Mai Thị Xuân, tu Dòng tại Giáo phận Sài Gòn
Con ông bà cố Vinh Sơn và Maria Mai Văn Kiểng
Họ tổ số 60
20. Nữ tu Maria Mai Thị Dung, tu Dòng tại Giáo phận Sài Gòn
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Mai Văn Kiểng
Họ tổ số 60
21. Nữ tu Maria Phan Thị Loan, tu Dòng Mân Côi Trung Linh, Bùi Chu
Con ông cố Vinh Sơn, Maria Phan Văn Riện
Họ tổ số 66
22. Nữ tu Maria Phạm Thị Thành, sinh 1940, tu Dòng Mân Côi Trung Linh, Bùi Chu Khấn năm 1970
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Phạm Văn Khiêm
Họ tổ số 67
23. Nữ tu Maria Nga, tu Dòng Mân Côi Trung Linh, Bùi Chu
Con ông bà cố Giuse, Maria Phạm Viết Thân
Họ tổ số 67
24. Nữ tu Maria Phạm Thị Huệ, tu Dòng Mân Côi Trung Linh, Bùi Chu
Con ông bà cố Vinh Sơn, Maria Phạm Khắc Tuyên
Họ tổ số 67