11. Xây Dựng Thánh Đường Lần 3

Nhà thờ làm năm 1933 tiền nhân để lại, nay đã xuống cấp, nhất là diện tích chỉ có 392m2, mà số giáo dân gần bốn nghìn, không đáp ứng với những ngày lễ trọng, giáo dân phải ngồi ngoài sân, nhất là những khi mưa gió, nóng nắng, nên toàn dân một lòng nhất trí để Ban Hành giáo làm đơn xin phép Đức Cha giáo Phận cũng như chính quyền các cấp cho phép xây dựng nhà thờ giáo xứ

Ngày 08/04/1991 Hội đồng Giáo xứ làm đơn đệ trình các cấp lãnh đạo. Đến ngày 27/5/1993, tiếp nhận được quyết định cho phép. Giáo xứ xây dựng thánh đường với diện tích 722m2, khi được giấy phép, thành lập ban kiến thiết công trình

Thành lập ban kiến thiết công trình

Tối ngày 28/5/1993, một hội nghị lớn được tổ chức, có sự tham gia của toàn dân. Hội nghị bầu ra ban kiến thiết gồm các ban và các ông như sau;

  1. Ban điều hành thi công:

+ ÔngVinh sơn Nguyễn Văn Tăng -trùm chánh xứ

          + Ông Vinh sơn Nguyễn Văn Hưởng.

  1. Ban kinh tế:

          + Ông Vinh Sơn Nguyễn Văn Nghệ – Thủ quỹ

          + Ông Vinh Sơn Nguyễn Ngọc Khảng

  1. Ban vật tư:

          +  Ông Vinh Sơn Đinh Quang Lạc- Thư ký

          +  Ông Vinh Sơn Phan Trần Điến

  1. Ban điều hành nhân lực:

          + Ông Vinh Sơn Mai Vũ Điếm- Trùm phó

          + 14 vị  Trưởng khu

  1. Ban thông tin phục vụ:

         + Ông Vinh Sơn Mai Đức Sinh

        + Ông Vinh Sơn Nguyễn Văn Đoàn

Trong 5 ban chính lại chia ra nhiều tổ như: Kế toán, thủ kho, thủ quỹ, thợ sắt, thợ xây, thợ mộc, tổ ráo, tổ phục vụ nấu nước, tổ cơ động phục vụ là những người có xe máy:  khi đi giao tiếp, khi cần phục vụ, đưa các vị có trách nhiệm đi giao dịch, cộng 86 người ở các ban.

Sau khi ổn định các ban ngành, ngày 1/6/1993 dịp lễ Thánh tâm Chúa, Đức Cha  Giu Se Maria Vũ Duy Nhất- Giám Mục Giáo phận, Chủ tế thánh lễ long trọng, kính Thánh tâm Chúa và cầu bình an cho công trình. Cùng đồng tế có nhiều Cha và đông đảo giáo dân tham dự.

Ngày 4/6/1993 cha xứ Giu Se Phạm Khắc Thẩm cử hành thánh lễ hạ giải, đây là thánh lễ cuối cùng được cử hành tại nhà thờ cũ. Sau thánh lễ, đoàn đại biểu Chính quyền đọc quyết định cho phép hạ giải nhà thờ cũ và tái thiết thánh đường mới. Trong ánh điện chan hoà, dẫn đầu là Cha xứ, rồi đến các vị bí thư, chủ tịch xã lên rỡ viên ngói đầu tiên cổ vũ công việc hạ giải và xây cất Thánh đường.

Ngày 5/6/1993, từ sáng sớm, nghe hiệu chuông, từ các nẻo đường trong xứ, mọi người đổ về nhà thờ. Hôm đó công trình có trên ngàn người tham gia công trình hạ giải Tuy nắng mùa Hạ trùng với tuyết Mang chủng làm tăng vẻ oi ả, mồ hôi ướt đẫm, mọi người vẫn lao động hăng say không biết mệt mỏi. Đến ba giờ chiều ngói và gạch màn đã rỡ xong, trên mái chỉ còn các vì gỗ và hoành rui. Các vì gỗ vừa to vừa cao, nhờ có nhiều sáng kiến đưa ra và được áp dụng hiệu quả, nên các vì gỗ đều hạ xuống an toàn, còn bức cuối nhà thờ cao to, lại đứng độc lập, rỡ từ trên xuống thì phải bác ráo tốn công và không bảo đảm an toàn, nhiều sáng kiến được áp dụng. Sáng kiến lấy xà beng đánh chân trường nhỏ lại phía nền nhà thờ. Với bức trường to cao, đổ xuống sẽ tạo chấn động lớn ảnh hưởng đến các nhà dân xung quanh, sáng kiến bó hàng trăm bó rơm rạ rải về phía nền nhà thờ để trường đổ xuống không tạo chấn động lớn. Bức trương đã đánh hoắm chân, buộc hàng chục dây trên đầu trường, hàng trăm người hò nhau kéo về phía nền nhà thờ. bức trường đổ xuống một cách nhẹ nhàng 

Ngày 29/6/1993 Lễ kính hai thánh tông đồ Phê Rô và Phao Lô, Cha xứ và ban công trình cắm móng tân Thánh đường.

Ngày 3/7/1993, chính quyền và ban công trình thống nhất lần cuối để bà con đào móng. Chuông báo vang lên, khoảng 500 nhân lực khoẻ với dụng cụ lao động sẵn sàng lao vào công việc. Chỉ sau bốn tiếng đồng hồ, 346 m2 đất đã đào xong. Hôm sau bắt tay vào đóng cọc tre, gần 8000 chiếc cọc dài từ 1.8m- 2.5m, chỉ trong một ngày là đóng xong. Ngày 6/7/1993 hồi 9 giờ sáng, Cha xứ cử hành thánh lễ đặt viên gạch đầu tiên xuống móng, nên sau thánh lễ, khi cha đặt viên gạch đầu tiên, bà con đưa hàng chục mét khối gạch bằng củ đậu rải xuống móng để chuẩn bị phần đổ bê tông móng. Sang ngày 7/7/1993, mãi đến 11 giờ đêm hôm đó xô bê tông cuối cùng đổ xuống móng mới hoàn thành.

Ngày 24/7 Lễ thánh tổ Giu Se Hiền. Đức cha Giu Se Maria Vũ Duy Nhất chủ tế thánh lễ. Sau lễ, Đức Cha đặt viên đá đầu tiên xây trường nhà thờ, đặt ở trường đầu nhà thờ về góc Tây may. Đến tháng chín, công việc xây trường đã bằng khẩu, diện tích 722m2. Ngôi nhà thờ mới tuy diện tích bằng hai ngôi nhà thờ cũ, nhưng với giáo dân gần bốn nghìn thì diện tích ấy chưa đáp ứng, nên Giáo xứ làm đơn xin xây tiếp hai gian phía cuối cộng với hai cây tháp. Ngày 27/12/1993 nhận được phép cho xây hai gian cuối và hai cây tháp. Ngày 28/12/1993 bắt tay vào thi công phần móng, hai gian và hai ngọn tháp. Móng tháp đào mỗi bề 15m, sâu 1.4m, lượng đất phải đào là 675m3. Cọc tre đóng xuống móng 10.000 chiếc, mỗi cọc dài 2.0 đến 2.5m. Khi đó phương tiện cơ khí chưa có, toàn đóng bằng thủ công. Công việc đóng móng rất vất vả vì đào sâu phải bác sàn, 2 người ở dưới giữ cọc, 2 người đứng trên sàn ráo cầm chầy giồng mà đóng xuống.  

Ngày 1/1/1994 đổ bê tông phần móng và tiến hành xây tiếp cột tháp. Ngày 21/9/1994 ghép xong cốt pha các vì, dự định đổ bê tông các vì trong ba ngày, bắt đầu từ  ngày 22/9/1994 với khối lượng 95m3, phải đưa lên độ cao từ 13.5m đến 17.50m không có gây chuyền kích lên mà chỉ chuyền lên bằng tay, người này chuyền cho người kia,  song với lòng nhiệt tình của giáo dân, công việc chỉ làm trong hai ngày là xong. 

          Ngày 5/11/1994 bắt đầu thả hoành và lợp ngói. Ngày 18/11/1994 đổ bê tông mặt bằng nóc tháp ở độ cao 30 mét. Ngày 28/11 kéo hai quả chuông lên tháp và việc vào áo trong ngoài nhà thờ đã tạm xong.

Nhà thờ hình thánh giá, bốn mái, hai mái hạ và cánh thánh giá lợp ngói Nam của nhà thờ cũ, hai mái thượng lợp bằng ngói đóng bằng si măng, chiều dài 70 phân, chiều rộng 40 phân có độ chắc nặng, phòng khi bão gió không bị lột bay. Khung song các cửa lủng đúc bằng gang theo mẫu nhà thờ Chính toà Bùi Chu, cánh cửa toàn bằng gỗ lim. Đến đây thánh đường đã cơ bản hoàn thành phần thô, chuẩn bị trang trí nội thất với kích thước sau;

          Chiều dài :                                  50 m

          Chiều rộng:                                18 m 

          Chiều rộng cánh thánh giá:        26 m

          Diện tích:                                    956m2

          Chiều cao:                                  17 m

          Cột cao :                                     13 m           

          Trường cao:                                7.2 m

          Gác xép cao:                               5.3 m

          Tháp cao đến mặt bằng:             30m 

          Ngày 10/9/1995 đổ bê tông sân. Hai bên đường kiệu, thềm hai bên nhà thờ xây các vồng nhãn. Ngày 31/1/1996 xây cây cầu phía may hai bên bờ sông cuối nhà thờ. Sau gần bốn năm  từ ngày 1/6/1993 đến ngày 23/4/1997 từ lúc hạ giải nhà thờ cũ đến khánh thành tân thánh đường, tiến độ thi công liên tục, chỉ ngừng trong những lúc mùa màng và lễ tết

Chỉ đạo công trình khi khởi công là Cha Giu Se Phạm Khắc Thẩm. Đến ngày 15/9/1995 Cha Vinh Sơn Đặng Ngọc Đường về nhận xứ, người đôn đốc và chỉ đạo tiếp tục cho đến hoàn thành. 

Sau khi xây dựng Thánh đường, khởi công ngày 5/6/1993 đến nay đã hoàn thành, đã đầu tư bao công sức và tiền của, nay được cắt băng khánh thành. Mọi người rất vui mừng phấn khởi. Ở cuối nhà thờ, làm theo nguyên mẫu của Vương Cung Thánh Đường nhà thờ chính Toà tổng giáo phận Sài Gòn. Là ngày đặc biệt trọng đại của Giáo xứ Xuân Dục nên bà con quê hương từ Bắc chí Nam cũng như hải ngoại. Đồng hương Sài Gòn trưởng đoàn là Cha quê hương Vinh Sơn Ngô Minh Tân, đồng hương Song Vĩnh là ông cố Vinh Sơn Nguyễn Văn Trang trưởng đoàn, cùng các đoàn Thọ Lâm, Buôn Mê Thuật, Hà Nội, Yên Bái, Quảng Ninh, khắp nơi trong Nam ngoài Bắc, nơi có người quê hương Xuân Dục đều về chung vui. Đoàn đại biểu Uỷ ban Nhân dân xã Xuân Ninh cùng về tham dự chúc mừng.

          Thánh lễ  khánh thành, Đức cha Giu Se Maria Vũ Duy Nhất chủ tế, Cha xứ Vinh Sơn Đặng Ngọc Đường, Cha quê hương Ngô Minh Tân, cùng các Cha trong Giáo phận về cùng dâng thánh lễ tạ ơn, cung hiến nhà thờ, bàn thờ và xức dầu 12 cây cột. Đức Cha long trọng đặt hài cốt 6 vị thánh tử đạo trên bàn thờ  

          Các vị thánh tử đạo là:

  1. Đức Cha thánh Va Len Ti Nô Vinh sinh 14/2/1827 tại Eolriô Tây Ban Nha, vào dòng làm linh mục năm 1851. Sang Việt Nam 30/3/1858, chịu chức Giám Mục tại Ninh Cường ở nhà ông huyện Hinh, mũ giấy cây gậy trúc ngày 1/11/ Bị bắt ngày 25/10 năm 1861, tử đạo 1/11/1861. Đức Thánh Cha PiO X phong chân phước 20/5/1906
  1. 2. Cha thánh Tổ Giu Se Fernando Hiền, sinh năm 1775 tại xứ Bentasa Giáo phận Aliva Tây Ban Nha khi đã vào dòng Đa Minh, làm linh mục năm 1805. Đến Việt Nam 18/12/1806, giảng đạo tại Việt Nam 30 năm. Bị bắt tại Phát Diệm 18/6/1836, được phúc tử đạo 24/7/1838 tại Nam Định ( xử trảm). Cha thánh là cha xứ đầu tiên và là vị khai sáng làng Xuân Dục. Đức Giáo Hoàng Lê Ô XIII phong chân Phước ngày 24/7/1900

          3 Cha thánh Phê Rô Nguyễn Bá Tuần, sinh năm 1766 tại Ngọc Đồng, Hưng Yên. Chịu chức linh mục 1807, Người bị bắt cùng Cha thánh Hiền. Vua minh Mạng phê án trảm quyết, song chưa thi hành án thì Ngài chết trong tù 15/7/1838. Đức Thánh Cha Lê Ô XIII phong chân phước 27/5/1900.

          4 Cha thánh Bê na đô Vũ Đức Duệ, sinh 1760 tại họ Đông Cường xứ Quần Phương, bị bắt 3/6/1838, được phúc tử đạo 1/8/1938.  Đức Giáo Hoàng Lê Ô XIII phong chân phước  27/5/1900.

          5 Thầy thánh Phan Xi Cô Đỗ Văn Chiểu, sinh năm 1797 tại Trung Lễ xứ Liên Thuỷ, bị bắt 9/6/1838, tử đạo ngày 22/5/1862. Đức Giáo Hoàng Pi Ô XIII phong chân phước 29/4/1951.

          6 Ông thánh Lau ren xô Phạm Viết Ngôn, nông dân, sinh 1840 họ giáo Liên Thượng, xứ Liên Thuỷ, bị bắt 8/9/1861, tử đạo ngày 22/5/1962. Đức Giáo Hoàng Pi Ô  XII phong chân phước 29/4/1951

          Tất cả 6 vị thánh đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phao Lô II nâng lên bậc hiển Thánh ngày 19/6/1988.

          Giáo dân Xuân Dục cảm tạ hồng ân Chúa, nhờ lời cầu bầu của Đức Mẹ, thánh Vinh Sơn quan thầy, thánh tổ Giu Se Hiền cùng sự nhiệt tình của Đức Cha giáo phận Giu Se Vũ Duy Nhất, cha xứ Giu Se Phạm Khắc Thẩm, cha xứ Vinh Sơn Đặng Ngọc Đường, hai Cha đồng hương Vinh Sơn Nguyễn Thanh Điện, cha Vinh Sơn Ngô Minh Tân, cha ân nhân Đa Minh Vũ Nguyên Thiều, các quý cha quý tu sỹ nam nữ, các vị ân nhân, thân nhân hai miền Nam Bắc, trong nước cũng như hải ngoại và sự giúp đỡ của chính quyền các cấp nhất Uỷ ban Nhân dân xã Xuân Ninh.

          Xin Thiên Chúa trả công bội hậu cho các đấng bậc, các vị ân nhân, thân nhân cùng tất cả các  quý vị đã giúp đỡ bằng mọi cách, trong công trình xây dựng ngôi thánh đường giáo xứ Xuân Dục  

Ghi ơn

Xuân Dục chung vui dựng thánh đường

Cùng lòng giúp đỡ của muôn phương

Công trình tiến triển nhờ ơn Chúa

Lao động an toàn được Mẹ thương

Nhờ thánh Vinh Sơn nhiều phép lạ

Cùng công Thánh  tổ thực phi thường

Ngàn năm con cháu còn ghi nhớ

Sớm tối nguyện cầu toả khói hương.

Nguyễn ngọc Khảng.

Sau khi tổ chức bầu ban công trình ổn định, số người tham gia là 86 người. Trong lúc thi công, mọi việc đều đưa ra bàn bạc, trong cuộc họp thường có nhiều ý kiến khác nhau, song với tinh thần đoàn kết xây dựng, mọi người đều tôn trọng góp ý của tập thể, cụ thể có những việc thống nhất bằng cách bỏ thăm, như việc làm xà bằng gỗ hay xi măng, thiểu số phải chấp hành đa số vì con người không thể toàn thiện chỉ có Thiên Chúa mới toàn thiện toàn năng mà thôi, điều mình biết thì có hạn mà điều mình không biết thì vô hạn. Nhờ sự đoàn kết và  dân chủ đó, mọi công việc khó khăn đều hoàn thành tốt đẹp.

         Trước, nhờ sự quan phòng và hồng ân của Chúa, nhờ sự chuyển cầu của mẹ

 Maria, thánh Vinh Sơn, Thánh tổ Giu Se Hiền

Là một giáo xứ nghèo, vừa trải qua thời bao cấp, bà con còn nhiều khó khăn,  nguồn vốn chuẩn bị cho công trình không có. Bắt tay vào công việc, về kinh tế thuận lợi thì ít mà khó khăn thì nhiều, song với lòng quyết tâm, tinh thần đoàn kết một long, sau khi được quyết định, mọi người hướng về công trình, với lòng quyết tâm cao, không ngại khó khăn gian khổ, việc bổ bán cho các gia đình không đáng là bao, cốt ở lòng tự nguyện. bao nhiêu vốn chung các khu, các hội đoàn đều đưa vào công trình, các đoàn thể, các giới, đều tổ chức dâng của lễ, kể cả các em cũng nhiệt tình tham gia. Các em xưng tội rước lễ lần đầu cũng không nhận quà để góp vào công trình. Tết Nguyên đán Giáp Tuất 1994, với tinh thần tự nguyện, được bao nhiêu tiền mừng tuổi, các em đều tự nguyện dâng cho công trình, kinh tế tuy nhỏ song tinh thần cổ vũ thật là to lớn.

          Dâng lễ vật đầu tiên là 1/6/1993, với tinh thần tự nguyện của các gia đình, trong bốn năm xây dựng, có 23 lần tổ chức dâng của lễ lớn nhỏ. Ban kinh tế cử người tới các miền đồng hương từ Bắc chí Nam, loan tin cho các bà con ở hải ngoại, hưởng ứng giúp đỡ. Cha quê hương Ngô Minh Tân cùng ông Tâng, ông Khảng đi tất cả các bà con đồng hương ở miền Nam, hô hào bà con đồng hương hưởng ứng. Một số bà con tuy mới vào lập nghiệp kinh tế cũng còn nhiều khó khan, song cũng hưởng ứng tích cực đem lại kết quả lớn cho công trình

          Những người vì hoàn cảnh gia đình đi làm xa, cụ thể anh em làm xích lô ở Hà Nội, thay vì thiếu vắng trên công trình, anh em đã bớt những đồng tiền thu được tự mồ hôi công sức, cứ khoảng một hai tháng gửi về cho công trình. Cách làm kinh tế đa dạng, công trình còn mua cói trong miền Nam đưa về chia cho các gia đình làm chiếu, công trình bán lấy lời. Khi công trình cần chi gấp mà chưa khai thác được, đến với các đôi tân hôn vay số nữ trang khi có điều kiện công trình hoàn lại.

Nguyên vật liệu là yếu tố hàng đầu để đảm bảo chất lượng công trình, yêu cầu nguyên vật liệu, chất liệu phải đạt tiêu chuẩn. giá thành hợp lý. Xi măng mua tại nhà máy xi măng Bỉm Sơn- Thanh Hoá. Sắt mua tại các cửa hàng đại lý lớn, đúng chủng loại theo yêu cầu. Gạch đốt dã chiến không dùng, xây toàn gạch lò, ban đầu mua gạch săn, sau đắp lò, phân cho các khu tự làm lấy. Mộc phải đưa thuyền lên đồng lấy đất về làm, gạch mộc phải bạc, đốt kỹ thuật, gạch già mà không phồng, chất lượng tốt nên giá thành hạ. Công trình có thời gian định làm xà gỗ, nên đi mua mấy chục khối gỗ lim, sau thấy làm xà gỗ không có độ giằng nhiều, Cha  Phạm Khắc Thẩm là Cha xứ lúc đó, song Ngài cũng không độc quyền và áp đặt. Thực hiện khẩu hiệu dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, Ngài tổ chức cuộc họp toàn dân để lấy ý kiến, đa số qua thông báo hai cách, một vì  bê tông hai là vì gỗ, nếu nhiều người tán thành làm xà  bê tông, nếu nhiều người tán thành làm xà gỗ thì làm xà gỗ. Ngài tổ chúc bỏ thăm bằng đỗ đen và đỗ xanh, đỗ xanh là làm bằng bê tông, đỗ đen là làm bằng gỗ. Sau khi bỏ đỗ, đỗ xanh là đa số nên chuyển  sang làm xà bê tông. Gỗ bóc thành xà, bán cho xứ Tích Tín, khi mua giá hạ, lúc bán giá cao, số gỗ còn lại cộng với gỗ nhà thờ cũ đem đóng cánh cửa và ghế ngồi đầy đủ, vì trước đã có ghế song còn thiếu nhiều vì nhà thờ mới rộng hơn

Dưới sự điều hành của ban nhân lực và các vị trưởng khu điều hành trong khu mình, những người từ 18 tuổi trở lên đến 55 tuổi đều tham gia đóng góp ngày công. Với sự nhiệt tình, nhiều người không phải diện đóng góp song cũng tham gia ngày công, như các cụ già và trẻ em. Người lớn việc lớn, người nhỏ việc nhỏ, đặc biệt một số cụ cao tuổi mà còn khả năng lao động trong thời gian thi công ít ngày vắng mặt các cụ.

          Trong những lúc mùa màng gặt hái, hết sức bận rộn, vất vả, ngày ra đồng thu hoạch, tối lại ra sông lớn vận  chuyển đá cát, để mùa xong có vật liệu thi công. Những lúc thời tiết xấu, trời kéo cơn mưa lúc một, hai giờ đêm, bà con đang ngủ nghe tiếng chuông báo tin mưa. trong chốc lát đã có hàng trăm người chạy đến công trình, thu, che, hàng vạn viên gạch mộc, hàng mấy tấn than đã đóng chuẩn bị vào lò che đậy bảo đảm. Các ông thợ xây, các bác thợ mộc, những người thợ ráo, các ông thợ sắt đều là người trong xứ. Mọi người nhiệt tình với tinh thần xây dựng nhà Chúa. 

          Sau 4 năm xây dựng công trình, hàng vạn ngày công lao động của bà con, mà chưa từng tham gia xây dựng công trình lớn bao giờ. Dụng cụ lao động thô sơ, việc bảo đảm an toàn lao động là điều quan trọng, nhưng qua thời gian thi công, không xảy ra một tai nạn nào đáng tiếc, đây cũng là nhờ ơn Chúa,  Đức Mẹ và hai Thánh quan thầy.

         

Số vật tư dùng để xây dựng nhà thờ

Stt                Dẫn giải                                          Số lượng

1                   Xi măng                                           343. 120 kg

2                   Sắt                                                   56. 742 kg      

3                   Đá   (1+2-4+6 )                               580 m3

4                   Cát vàng                                          772 m3

5                   Gạch xây                                         756. 258 viên

6                   vôi củ                                               161. 740 tạ

7                   Cát đen                                            853 m3

8                   Gỗ lim +gỗ dổi                                93. 72 m3

9                   Gỗ cốt pha  Nhóm 5+6                    37. 2 m3

10                 Tre luồng                                         6. 990 cây

11                 Tre cọc                                            14. 662 cái

12                 Song gang                                        25 bộ

13                 Than đốt gạch                                  (516. 380 viên )102.000

14                 Kính mầu                                         72 m3

 

                          Ngoài số vật liệu trên công trình  mua thêm

1        Bản nề, vòng bi, sắt nẹp cửa, đinh vít cửa và ghế:                                            15. 665. 000 dồng

2        ống nước, que hàn, đồ điện, gạch hoa, sơn, dây buộc, ráo, đinh:          56. 887. 000      đồng

3         Các loại máy:                                                                                                    21. 975. 300 đồng

4          Xô, xẻng, cào, thúng:                                                                                      15. 275.đồng

                                                                    Tổng chi phí                    1.669.629.000 đồng                                                         

5-       Đóng thêm ghế ngồi bằng gỗ lim                                                            240 chiếc

 

           Tổng số công lao động kể cả rỡ nhà thờ cũ                                           107. 804 công

 

Các đổ thờ phượng  có trong dịp làm nhà thờ         

  1. 1. Kho toà Chính sơn son thiếp vàng ( thợ Hai Giáp làm, ông cố Nguyễn văn Trang cúng)
  2. 2. Bàn thờ làm lễ bằng đá, mua ở Thanh Hoá ;dài 3.2m, rộng 1.00m , Dày 0.18m, cao 1.15m, nặng 3 tấn, ông Chánh Trường- Song Vĩnh dâng cúng 
  3. 3. Tượng thánh Vinh Sơn, toà chính giữa, tượng thánh Giu Se Hiền và tượng thánh

         Phê Rô hai toà cạnh

4   Một mặt nhật

5    Bộ Lư hương đồng

Ngày 23/4/1997 khánh thành nhà thờ, song hai ngọn tháp chưa làm được . Ở độ cao

30m, vuông mỗi cạnh 5m. Với ý định làm theo mô hình nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, nên mọi người đều mong xây cho hoàn tất. Trước có suy nghĩ sợ móng không chịu được độ nặng, nên định làm bằng kim loại, song qua tìm hiểu hai ngọn tháp nhà thờ Đức Bà Sài Gòn do kiến trúc sư Ameder rvat thiết kế, cũng đúc bằng bê tông cốt thép, khảo sát móng lại, thấy khả năng móng có thể chịu trọng tải với ngọn tháp bàng bê tông và đi tham quan một số ngọn tháp của các nhà thờ trong giáo phận, sau khi đã thống nhất phương án và mẫu mã, nhất trí khoán thẳng cho thợ Kiên Lao thuộc xã Xuân Tiến.

             Cụ thể như sau;

     Bên A: Cha xứ và Ban hành giáo giám sát công trình, kiểm tra chất lượng vật tư, kỹ thuật, mỹ thuật theo bản vẽ và thiết kế.

     Bên B: Phải đảm bảo kỹ thuật, chất lượng, mỹ thuật, thời gian đúng hợp đồng đã ký     Tuy hợp đồng đã ký, chuẩn bị xong, lại gặp thời kỳ mưa bão, nên đến 2/9/1999 bắt đầu bác ráo, 17/9/1999 đúc bê tông các dầm chân tháp, 19/11/1999 hai thánh giá bằng Inox được đưa lên ngọn tháp. Hai cây thánh giá cao 1m60, tổng chiều cao ngọn tháp từ dưới lên đến đỉnh là 47.30m, trong lòng tháp là bốn tầng, có cầu thang từ dưới lên các tầng, ở tầng bốn có cửa ra ngoài về phía tây, có vòng bảo vệ để leo lên tận chân thánh giá, để tuần chầu của giáo xứ hay lễ trọng lên kéo cờ. Công trình toàn bằng bê tông cốt thép, xây trát bằng xi măng cát vàng. Công trình hoàn thành 24/1/2000.

          Khối lượng vật tư công trình hai ngọn tháp  

  1.  1. Thép các loại:                       766 kg                          
  2.    2. Xi măng:                             280 kg
  3. 3. Đá    1+2  +05:                     5   m3
  4. 4. Cát vàng:                             50 m3
  5. 5. Gạch lục:                             280  viên
  6. 6. Gạch tilon:                          260 viên
  7. 7. Tre làm ráo:                         740  cây

     Về kinh phí theo như hợp đồng, công với các phụ phí phát sinh:

      Tổng cộng 80 triệu đồng

Sau khi khánh thành nhà thờ và làm tiếp hai ngọn cây Tháp, bà con đóng góp công của cũng nhiều, để nuôi dưỡng sức dân, song việc học và dậy giáo lý cũng rất cần. Các em không có cơ sở để học tập, các em phải vào các nhà bà con để học, với các cháu nhỏ, nô đùa nghịch ngợm, nhiều khi cũng phức tạp, song để các cháu hiểu biết về đức tin, nắm chắc về giáo lý, biết việc lành mà làm, biết việc dữ mà tránh, cách biết, cách ăn ở với cha mẹ, ông bà, anh em họ hàng và biết cư xử với tha nhân, với tình tương thân bác ái thương yêu như thế nào theo luật Chúa dậy.

          Nhân ông Mai Văn Thi, em Cha Mai Cao Hiển ở Hoa Kỳ, có gửi công đức cho giáo xứ 1000 đô la số tiền tuy không lớn, song tấm lòng rất quý, tuy người ở xa mà lòng luôn hướng về quê hương. Nhân đó, Cha cố Vinh Sơn Đặng Ngọc Đường và Ban hành giáo hô hào bà con giáo dân, cố gắng đóng góp xây dựng nhà giáo lý, vì nhu cầu xây dựng chính đáng và cần thiết nên mọi người đều hưởng ứng tích cực, rồi tổ chức các cuộc họp, trên từ Cha xứ, Ban hành giáo, trưởng các hội đoàn mọi người dân đều được tham gia góp ý xây dựng. Sau khi đã tổng kết các ý kiến về địa điểm cũng như chương trình thiết kế.

          Khởi công vào ngày 1-1-2001. Chiều dài 30 mét, chiều rộng 7 mét, nửa nhà phía Đông là ao nhà xứ, phía tây là vườn chè, nên khi làm móng, mục đích là 2 tầng, nên móng phải làm rất chu đáo ở vị tri chỗ lòng ao, chỗ vườn chè, mua cây thông (phi lao) và tre hoá về đóng cọc. Cọc dài 3 mét, cọc cách cọc từ 30-25 phân, sau đó lại dải thông thành mảng. Móng đào sâu 1.40 mét, làm khẩn trương thời gian để hoàn thành trước ngày 22-8-2001 vào dịp kỷ niệm ngân khánh cha xứ Vinh Sơn Đặng Ngọc Đường

          Quyết toán  xây dựng nhà giáo lý Xuân dục tầng một

 

                               Nguyên vật liệu xây dụng

                                        

Sắt các loại

$                   25                 61cây                                          10. 553. 000 đòng

$                   22                 24 cây                                         3. 672. 000 đông

$                   20                 47 cây                                           5702. 000 đồng

$                   18                 36 cây                                         3. 344. 000 đồng

$                   16                 110 cây                                       6. 930. 000 đ

$                   14                 96 cây                                         4. 608. 000 đ

$                   12                 7 cây                                              240. 000 đ

$                  8                   1120 kg                                      5. 360. 000 đ

$                   6                   1449 kg                                      6. 998. 000 đ

  Dây buộc 1 ly                     97 kg                                         633. 000 đ

Xi mang                           50. 499 kg                                  37. 390. 000 đ

Đá 1×2 đá4 x 6                 149m3                                        7. 604. 000 đ

Cát  vàng                            93 m3                                       4. 999. 000 đ

Gạch xây                          96. 600 viên                               23. 125. 000 đ

Gạch men ốp lát              4773 viên                                      16. 541. 000 đ

Vôi xây                              17. 120 kg                                 3. 974. 000 đ

Cát đen lấp hồ                    833 m3                                     7. 349. 000 đ

Cửa đại. cửa lửng. cửa xếp cổng                                            22. 838. 000 đ

Thông đóng cọc. tre làm ráo                                                6. 775. 000 đ

Mua gỗ cốt pha vàthuê cốt pha                                 5. 714. 000 đ

Mua linh kiên. Máy bơm ống nhựa vật tư                           6. 956. 000 đ

Ngày công đống góp và khoán  1620 công                        10. 450. 000 đ

Tiền khoán thẳng cho thợ xây                                          23. 530. 000 đ

Chi phí phục vụ                                                                   3. 294. 000 đ

Trang bị màng lưới điện nhà giáo lý                                   2. 939. 000 đ

 Nội thất:tủ. bàn. ghế. bảng để học tập                            11. 296. 000 đ

                           Tổng cộng                                            242. 814. 000 đồng                

Thời giá Vàng 480 ngàn 1 chỉ, Đô la 100 giá 1.452.000 đ

          Ông Vinh Sơn Nguyễn Ngọc Khảng làm Trùm chánh xứ, nhiệm kỳ từ năm 1997 đến năm 2002 

         Tầng Hai, năm 2003, nhiệm kỳ ông Chánh Vinh Sơn Nguyễn Tân Giả làm tiếp, khởi công ngày 15/6/2005. Các đầu cột sắt còn để dư 40-50 phân chỉ, nên hàn sắt vào nối lên đúc cột xây trường. Trên làm vì bằng sắt, mái lợp tôn, làm trần thạch cao. Khánh thành ngày 19/12/2005. Với sự đóng góp của bà con trong giáo xứ, Ban hành giáo và Cha xứ Cẩn vào Nam nhờ cha quê hương Vinh Sơn Ngô Minh Tân và ông chánh Đẳng hô hào  đồng hương Sài Gòn, đồng hương Song Vĩnh, Đồng hương Thọ Lâm, bà con trong Nam  ủng hộ thêm. Tổng kinh phí tầng Hai: 506.000.000 đ- Năm trăm linh sáu triệu đồng v.n.

Ông bà Vinh Sơn Nguyễn Bá Trường và bà Huỳnh Hoa dâng cúng cho nhà thờ Giáo xứ. Quả chuông trọng lượng 1557kg, cao 1.15m, đường kính 1.28m, trị giá 8.323 đô la tính theo Việt Nam đồng 131 triệu. Hoàn thành vào ngày 29/9/2004

Hai kỳ đài Tượng Đức Mẹ và tượng đài Thánh Giu Se, Cha xứ Đặng Ngọc Đường và ông chánh Nguyễn Tân Giả chỉ đạo và điều hành, kinh phi hết 40 triệu đồng. Khánh thành ngày 6 tháng 4 năm 2003 và thêm Khu mới Hiệp nhất cũng trong dịp này. Ông chánh Vinh Sơn  Nguyễn Tân Giả làm Chánh xứ nhiệm kỳ từ năm 2002 đến năm 2007 

Bài tiếp theo:

  • 71.856